Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2024

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 225

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 69

 

“Rừng văn biển học mù sương phủ

Đấng tài hoa chẳng phụ tấm lòng

Chân nhân luyện hạt gieo trồng

Tuy ngồi một chỗ hanh thông đất trời

 

Nho, y, lý, đạo đời chăng chớ

Toán, bốc càng rạng rỡ Thái san

Thầy xem khí tượng thiên văn

Lời ngay cặn kẽ chứa chan mấy hồi

 

Hàng chục pho trau dồi kiến thức

Sách Đan Khê y học vẹn tuyền

Có câu “y bát chân truyền“

Anh em kết nghĩa đào viên kém gì?

 

Lời thầy dạy khắc ghi lòng dạ

Ngư, tiều đành từ dã ra về

Nhập Môn đưa khỏi Liễu Khê

Tình huynh nghĩa đệ dãi dề chia ly

 

Thác nước chảy ầm ỳ vội vã

Nắng ban mai vách đá bồn chồn

Ngư, Tiều quẩy gánh đi luôn

Ngoảnh đi than thở lệ tuôn đôi dòng

 

Búa rìu mục long đong ngày tháng

Tấm lưới sờn cay đắng xót xa

Quan san muôn dặm sơn hà

Non xanh nước biếc bao la đất trời

 

Nào ai hay nửa đời đổi bước

Bỏ rừng xanh sông nước theo nghề

Y khoa nay đã nguyện thề

Cứu nhân độ thế đồng quê thị thành

 

Bậc đại phu xứng danh nho sĩ

Trọn hai trăng kiên nghị dẻo dai

Ngày thương tháng nhớ u hoài

Xa nhà nặng gánh đôi vai nhọc nhằn

 

Biết bao nhiêu gian nan vất vả

Đặng gắng mình mài đá thành kim

Tiểu nhi khỏi mất công tìm

Lương y từ thiện trái tim mẹ hiền

 

Ngày mai nhé dời thuyền ngư phủ

Gánh hành trang đầy đủ kim châm

Xọt đeo hái thuốc âm thầm

Quẳng dìu xó bếp thành tâm cứu người

 

Cả hai ngã nói cười rôm rả

Nửa ngày đi bóng ngả quang âm

Mừng thay ra khỏi Y lâm

Bỗng đâu chớp giật ầm ầm sấm vang

 

Mây đen tới vội vàng tìm chỗ

Gió mưa phun đây đó rậm rì

Nát nhàu cây cỏ đường đi

Vắng tanh dấu thỏ chim di lạc đàn

 

Nhìn ngơ ngác ngút ngàn sơn cước

Vái lâm quân chỉ bước chân đi

Thấy ngay hang đá tức thì

Dây leo chằng chịt đầm đìa hạt mưa.“

 

“y bát chân truyền“:

Cái áo cà sa và cái bát đi xin ăn của nhà sư, khi chết đi thì trao lại cho đồ đệ. Y bát chân truyền ý nói người học trò học được hết cái sở học chân chính của thầy.

 

Kết nghĩa đào viên? Tiểu thuyết nổi tiếng "Tam Quốc diễn nghĩa" của tác giả La Quán Trung từng có đoạn: Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi ba người tâm đầu ý hợp, quen biết không lâu đã kết bái huynh đệ tại vườn đào Trương gia.

 

Cũng kể từ đó, ba người huynh đệ khác họ ấy đồng tâm hiệp lực, lập nên Thục quốc, một trong ba ba thế lực tạo thành "thế chân vạc" thời Tam Quốc.

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 70

 

“Thật khéo thay cũng vừa đủ chỗ

Hai chàng bèn lọ mọ chui vào

Giở ngay cơm nắm khi nào

Nhập Môn gói sẵn nghẹn ngào sư huynh

 

Đi mùa xuân nắng tình hoa bướm

Mùa hạ về mưa đợm cỏ cây

Ve sầu rả ríc vui vầy

Cuốc kêu tu hú vượn bầy râm ran

 

Gió hiu hắt bạt ngàn mai trúc

Lòng xốn xang thúc giục đôi chân

Thình lình trống đánh rất gần

Giật mình há hốc quan quân tiến vào

 

Cúi lom khom chào rào lấp ló

Đuốc sáng chưng rõ tỏ mặt người

Cờ vuông lỗ bộ đứng coi

Cánh chuồn nghiêng ngó xăm soi lạ lùng

 

Một quan lớn ung dung chễm trệ

Kiệu lọng vàng thị vệ xếp hàng

Giáo gươm hùng hổ nghênh ngang

Ngư Tiều khép nép ngỡ ngàng bước ra

 

Có năm ngã kêu la thảm thiết

Cổ đeo gông dây xiết cổ tay

Oan khiên chen chúc một bầy

Công đường thảm thiết đơn đầy một mâm

 

Quân áp giải ầm ầm sát khí

Hương án xông chuẩn bị đăng đàn

Trước sân kìm, kẹp, roi, giàn

Lệnh truyền sĩ tốt phạm nhân bắt quỳ

 

Trống nổi lên quân uy soi mói

Lão Đậu kia bị trói dẫn vào

Hỏi làm thày thuốc khi nào?

Đậu khoa phương pháp âm hao tỏ tường

 

Chữa trị bậy bất thường táo tợn

Chết nhiều người gốc ngọn cung khai

Đậu rằng vốn chẳng học ai

Nhờ cha thuốc trái mấy bài để cho

 

Ba ngày trái phì phò mới phát

Dùng thang thanh lường gạt mát rồi

Sáu ngày trái mọc than ôi

Thần công tán hốt cố bồi cho xong

 

Bệnh thành nặng chẳng mong chữa khỏi

Nghề lang băm lại giỏi mánh mung

Chín ngày trái chẳng quán nung

Tranh nhau cố hốt lộc nhung thang thầy

 

Mười hai ngày đóng dày mưng mủ

Nội thiên kim thác ủ bệnh ngay

Thật ra chẳng rõ thang này

Phép cha thanh biểu độc quay quắt hoài

 

Quá kỳ trái dằng dai nóng sốt

Phép cha truyền cứ hốt thang bừa

Dửng dưng kinh sách xa xưa

Đậu sang mấy bữa hay chưa bất kỳ“

 

Đậu mùa là một căn bệnh truyền nhiễm của riêng loài người. Đậu mùa có tên gọi tiếng Latinh là Variola hay Variola vera, trong đó từ varius có nguồn gốc nghĩa là "có nốt", hoặc varus, nghĩa là "mụn nhọt".

 

Đậu mùa gây bệnh trong các mạch máu nhỏ ở da, miệng và cổ họng. Ở vùng da, bệnh gây ra những vết ban nổi sần đỏ đặc trưng, sau đó da bị phồng rộp những vết sần chứa nước

 

 

Đậu mùa xuất hiện vào khoảng 10.000 năm trước Công nguyên. Chứng tích xưa nhất của bệnh đậu mùa là những vết mụn mủ trên xác ướp của Pharaon Ramses V thời Ai Cập cổ đại.

 

14.5.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét