Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 61
“Trẻ ấu thơ mặn mòi cá nước
Đức hiếu sinh thao thức lòng trời
Tổ sư bào chế cứu đời
Bệnh nào thuốc ấy rạch ròi xưa nay
Lợi thế tục nhiều thày chẳng ngại
Lang băm càng tác hại tiểu sinh
Kỳ Hoàng đạo học chứng minh
Khen thay trị bệnh thấu hình thực hư
Đơn thuốc hay chân như cứu độ
Danh tiếng thơm sư tổ ghi công
Học trò rõ chước biến thông
Huyền vi y thuật mênh mông tấm lòng
Kiếp nhân sinh long đong trời đất
Thuốc nhi đồng sài giật nóng ban
Tử kim đĩnh, khỏi luận bàn
Quánh đờm ho nặng gian nan vô cùng
Bệnh sởi đậu phải dùng trợ vị
Lở lưỡi môi từng tí nhẹ nhàng
Kê đơn hóa độc đúng thang
Bảo long tinh tán thung thăng đáng tiền
Thiên châm hoàn, giảm liền nôn mửa
Sốt hãm luôn cứu chữa tới nơi
Nên dùng lô hội kịp thời
Chứng cam nên nhớ rạch ròi trước sau
Thuốc đã có phải mau ứng dụng
Ngư với Tiều tìm đúng phương hay
Hai chàng gặp bạn là may
Nhập Môn ưu ái tháng ngày chỉ cho
Đệ tử ruột tài cao uyên bác
Kỳ Nhân Sư tọa lạc nơi nao?
Ngư Tiều cảm khái dạt dào
Mong thày trở laị nghẹn ngào lệ sa
Khắp thiên hạ trăm nhà ngưỡng mộ
Bạn của thày tri cố hai ông
Họ tên là Hưởng Thanh Phong
Ảnh Minh Nguyệt lão tinh thông y truyền
Chẳng vướng bụi thiên nhiên tạo hóa
Bậc chân nhân tỏa đóa hoa mai
Thanh tâm khí tượng anh tài
Mỗi người một vẻ gót hài thần tiên
Thày ta vẫn thường xuyên thăm viếng
Với bạn hiền nức tiếng gần xa
Sẵn lòng Sào, Hứa ngâm nga
Tề, Di mát mặt trăng ngà bể dâu
Ba mươi sáu cung bầu hạc lỷ
Hưởng Thanh Phong tri kỷ mấy ai
Kỳ Nhân Sư một thiên tài
Ảnh Minh Nguyệt cũng hương lài thoảng bay
Vòng hối thực men say thoát khỏi
Đời tối bưng le lói bình minh
Ngẩn ngơ nhìn lại bóng mình
Mây lồng đáy nước lung linh góc trời“
Sào, Hứa là tên gọi theo một tích cổ bên Tàu, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ và Hứa Do .
Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu. Câu chuyện như sau , lời đối thoại theo "Chuyện giải buồn" của Huỳnh Tịnh Của:
Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi.
Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai. Khi đó, Sào Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao?
Hứa Do trả lời:
-"Ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua."
Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên dòng nước cho uống. Hứa Do hỏi tại sao, Sào Phủ đáp:
-"Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nước bẩn."
Sào Phủ lại nói:
-"Anh đi đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi."
Huỳnh Tịnh Của phê rằng:
-"Nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe."
Tích Sào Phủ Hứa Do trở thành một điển cố về lòng trong sạch và tính ẩn dật.
Trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, đoạn Vân Tiên, Vương Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm vô quán nước gặp một chủ quán có vẻ có tài, Vân Tiên khuyên ông ra làm quan. Ông trả lời:
“Quán rằng: Nghiêu Thuấn thủa xưa
Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do“
Ý nói, ngay cả đời thịnh vượng thanh bình như thời vua Nghiêu vua Thuấn mà còn có người ẩn dật không ra làm quan. Ý nói rộng hơn: huống chi thời này
Bá Di là con trai lớn nhất của Á Vi vua nước Cô Trúc thời vua Trụ nhà Thương. Vua cha muốn lập người em thứ 3 là Thúc Tề. Sau khi cha mất, Thúc Tề nhường lại ngôi vua cho Bá Di nhưng ông không nhận, nói rằng phải theo mệnh lệnh của cha và bỏ trốn.
Thúc Tề thấy ông bỏ khỏi nước Cô Trúc cũng đi theo ông. Người trong nước bèn lập Á Bằng người em của Bá Di và anh của Thúc Tề lên ngôi.
Nghe tin Tây Bá Cơ Xương là người trọng đãi hiền sĩ, anh em Bá Di tìm đến. Nhưng khi hai người đến nơi thì Cơ Xương đã qua đời, con là Cơ Phát lên thay, mang quân đánh vua Trụ tàn bạo. Bá Di cùng em đến trước ngựa của Cơ Phát can rằng:
- Cha chết không chôn lại gây việc can qua có thể gọi là hiếu không? Là bầy tôi giết vua có thể gọi là nhân không?
Cơ Phát không nghe. Những người hộ vệ của Cơ Phát định giết anh em Bá Di nhưng Khương Tử Nha ngăn lại và đỡ anh em ông dậy và cho đi nơi khác.
Cơ Phát lên ngôi thiên tử, lập ra nhà Chu, tức là Chu Vũ Vương. Các chư hầu đều tôn thờ nhà Chu. Riêng Bá Di và Thúc Tề xấu hổ về việc đã can ngăn vua Chu diệt bạo chúa, bèn cùng nhau thề không ăn thóc nhà Chu.
Bá Di và Thúc Tề lên núi Thú Dương, hái rau vi ăn qua bữa. Rau vi không thể nuôi sống được, cuối cùng ông và Thúc Tề đều chết đói tại núi Thú Dương. Tương truyền hai ông sau khi chết hóa thành hai con chim suốt ngày kêu "gia, gia" nên người đời gọi luôn nó là chim Gia Gia, sau này chẳng hiểu người ta tránh tên húy vị vua nào mà đổi lại thành chim Đa Đa.
Trước khi qua đời, Bá Di và Thúc Tề làm bài ca:
“Lên núi Tây chừ hái rau vi,
Lấy bạo đổi bạo chừ có hay chi?
Thần Nông, Ngu, Hạ chìm cả rồi, ta biết nơi nào đi?“
Đời sau thường dùng hình ảnh Di, Tề để nói về việc đi ở ẩn.
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 62
“Hai mươi tám sao chơi bốn biển
Chán hư danh hiện diện dáng hình
Gương thềm ngọc thỏ lung linh
Vầng trăng sáng tỏ cung nghinh tiếng đàn
Nhập Môn đang chứa chan thơ đọc
Bỗng khách đâu mời mọc thỉnh cầu
Chúa Liêu triệu đến sân chầu
Tôn sư rầu rĩ mái đầu tuyết sương
Chức thái sư Liêu vương ép buộc
Bổng lộc nhiều bốc thuốc kê đơn
Tôn sư căm giận oán hờn
Dật dờ sớm tối chập chờn bóng mây
Lòng bi phẫn bấy chầy thân phận
Kỳ Nhân Sư tủi hận chẳng ra
Dân tình thống khổ kêu la
Cửa nhà tan nát sơn hà giá băng
Thày cáo bệnh chẳng màng chức tước
Sợ triều đình ngờ vực sinh nghi
Nhập Môn chẳng rõ bệnh gì?
Vội vàng chuẩn bị ra đi thăm người
Ngư Tiều cũng tức thời biện lễ
Huynh đệ càng tri kỷ tương thân
Đan Kỳ theo lối đi gần
Gió nồm nam thổi đằng vân ráng chiều
Trời miền tây tiêu điều cảnh vật
Làn hơi sương phảng phất hồ sen
Non Kiều cây mọc cỏ chen
Hang sâu vực thẳm bao phen tuyết dày
Hươu vào động hạc bầy về núi
Ba người vừa cắm cúi bước vào
Thấy ngay Đạo Dẫn đón chào
Mời vào y quán nghẹn ngào trước sau
Thày chẳng chịu tự mù đôi mắt
Chốn thiên thai đóng chặt cửa thiền
Xông hai mắt đỏ triền miên
Sứ Liêu cũng chịu lụy phiền não thân
Cảnh nước mất nhà tan tang tóc
Dân lầm than kêu khóc khổ đau
Oán cừu thù hận theo nhau
Trẻ già trai gái dãi dầu nắng mưa
Nhập Môn nghe nhặt thưa lã chã
Giọt thương người lọ đá nát lòng
Trách thầm Minh Nguyệt Thanh Phong
Không ngăn cản được, hai ông phụ thầy
Không cố khuyên để vầy sao nỡ
Cảnh mù lòa món nợ y khoa
Tật tàn đôi mắt ướt nhòa
Di, Tề ẩn dật muối rau qua ngày
Nơi non Thú ai hay cam chịu
Chẳng chịu quỳ bám víu nhà Chu
Quản chi rừng núi âm u
Mai danh ẩn tích thiên thu u hoài.“
Chúa Liêu ép Kỳ Nhân Sư làm Thái Y trông coi viện thuốc, chăm sóc sức khỏe cho mình, Hoàng hậu, phi tần cung nữ và các quan đại thần. Nhưng Kỳ Nhân Sư không phục, không muốn làm tôi tớ cho ngoại bang, nên Tôn sư tự xông mắt mình mù đi để khỏi phải làm nô bộc, tay sai phục vụ triều Liêu. Truyện thật là bi thảm về cuộc đời một đại danh y thời nhà Tấn tên là Kỳ Nhân Sư.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét