Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2024

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 221

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 61

 

“Trẻ ấu thơ mặn mòi cá nước

Đức hiếu sinh thao thức lòng trời

Tổ sư bào chế cứu đời

Bệnh nào thuốc ấy rạch ròi xưa nay

 

Lợi thế tục nhiều thày chẳng ngại

Lang băm càng tác hại tiểu sinh

Kỳ Hoàng đạo học chứng minh

Khen thay trị bệnh thấu hình thực hư

 

Đơn thuốc hay chân như cứu độ

Danh tiếng thơm sư tổ ghi công

Học trò rõ chước biến thông

Huyền vi y thuật mênh mông tấm lòng

 

Kiếp nhân sinh long đong trời đất

Thuốc nhi đồng sài giật nóng ban

Tử kim đĩnh, khỏi luận bàn

Quánh đờm ho nặng gian nan vô cùng

 

Bệnh sởi đậu phải dùng trợ vị

Lở lưỡi môi từng tí nhẹ nhàng

Kê đơn hóa độc đúng thang

Bảo long tinh tán thung thăng đáng tiền

 

Thiên châm hoàn, giảm liền nôn mửa

Sốt hãm luôn cứu chữa tới nơi

Nên dùng lô hội kịp thời

Chứng cam nên nhớ rạch ròi trước sau

 

Thuốc đã có phải mau ứng dụng

Ngư với Tiều tìm đúng phương hay

Hai chàng gặp bạn là may

Nhập Môn ưu ái tháng ngày chỉ cho

 

Đệ tử ruột tài cao uyên bác

Kỳ Nhân Sư tọa lạc nơi nao?

Ngư Tiều cảm khái dạt dào

Mong thày trở laị nghẹn ngào lệ sa

 

Khắp thiên hạ trăm nhà ngưỡng mộ

Bạn của thày tri cố hai ông

Họ tên là Hưởng Thanh Phong

Ảnh Minh Nguyệt lão tinh thông y truyền

 

Chẳng vướng bụi thiên nhiên tạo hóa

Bậc chân nhân tỏa đóa hoa mai

Thanh tâm khí tượng anh tài

Mỗi người một vẻ gót hài thần tiên

 

Thày ta vẫn thường xuyên thăm viếng

Với bạn hiền nức tiếng gần xa

Sẵn lòng Sào, Hứa ngâm nga

Tề, Di mát mặt trăng ngà bể dâu

 

Ba mươi sáu cung bầu hạc lỷ

Hưởng Thanh Phong tri kỷ mấy ai

Kỳ Nhân Sư một thiên tài

Ảnh Minh Nguyệt cũng hương lài thoảng bay

 

Vòng hối thực men say thoát khỏi

Đời tối bưng le lói bình minh

Ngẩn ngơ nhìn lại bóng mình

Mây lồng đáy nước lung linh góc trời“

 

Sào, Hứa là tên gọi theo một tích cổ bên Tàu, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ và Hứa Do .

Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu. Câu chuyện như sau , lời đối thoại theo "Chuyện giải buồn" của Huỳnh Tịnh Của:

 

Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi.

Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai. Khi đó, Sào Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao?

Hứa Do trả lời:

-"Ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua."

 

 Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên dòng nước cho uống. Hứa Do hỏi tại sao, Sào Phủ đáp:

-"Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nước bẩn."

 

Sào Phủ lại nói:

 -"Anh đi đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi."

 

Huỳnh Tịnh Của phê rằng:

-"Nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe."

 

Tích Sào Phủ Hứa Do trở thành một điển cố về lòng trong sạch và tính ẩn dật.

 

Trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, đoạn Vân Tiên, Vương Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm vô quán nước gặp một chủ quán có vẻ có tài, Vân Tiên khuyên ông ra làm quan. Ông trả lời:

“Quán rằng: Nghiêu Thuấn thủa xưa

Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do“

 

Ý nói, ngay cả đời thịnh vượng thanh bình như thời vua Nghiêu vua Thuấn mà còn có người ẩn dật không ra làm quan. Ý nói rộng hơn: huống chi thời này

 

 

Bá Di là con trai lớn nhất của Á Vi vua nước Cô Trúc thời vua Trụ nhà Thương. Vua cha muốn lập người em thứ 3 là Thúc Tề. Sau khi cha mất, Thúc Tề nhường lại ngôi vua cho Bá Di nhưng ông không nhận, nói rằng phải theo mệnh lệnh của cha và bỏ trốn.

 

Thúc Tề thấy ông bỏ khỏi nước Cô Trúc cũng đi theo ông. Người trong nước bèn lập Á Bằng người em của Bá Di và anh của Thúc Tề lên ngôi.

 

Nghe tin Tây Bá Cơ Xương là người trọng đãi hiền sĩ, anh em Bá Di tìm đến. Nhưng khi hai người đến nơi thì Cơ Xương đã qua đời, con là Cơ Phát lên thay, mang quân đánh vua Trụ tàn bạo. Bá Di cùng em đến trước ngựa của Cơ Phát can rằng:

- Cha chết không chôn lại gây việc can qua có thể gọi là hiếu không? Là bầy tôi giết vua có thể gọi là nhân không?

 

Cơ Phát không nghe. Những người hộ vệ của Cơ Phát định giết anh em Bá Di nhưng Khương Tử Nha ngăn lại và đỡ anh em ông dậy và cho đi nơi khác.

Cơ Phát lên ngôi thiên tử, lập ra nhà Chu, tức là Chu Vũ Vương. Các chư hầu đều tôn thờ nhà Chu. Riêng Bá Di và Thúc Tề xấu hổ về việc đã can ngăn vua Chu diệt bạo chúa, bèn cùng nhau thề không ăn thóc nhà Chu.

 

Bá Di và Thúc Tề lên núi Thú Dương, hái rau vi ăn qua bữa. Rau vi không thể nuôi sống được, cuối cùng ông và Thúc Tề đều chết đói tại núi Thú Dương. Tương truyền hai ông sau khi chết hóa thành hai con chim suốt ngày kêu "gia, gia" nên người đời gọi luôn nó là chim Gia Gia, sau này chẳng hiểu người ta tránh tên húy vị vua nào mà đổi lại thành chim Đa Đa.

 

Trước khi qua đời, Bá Di và Thúc Tề làm bài ca:

“Lên núi Tây chừ hái rau vi,

 Lấy bạo đổi bạo chừ có hay chi?

 Thần Nông, Ngu, Hạ chìm cả rồi, ta biết nơi nào đi?“

 

Đời sau thường dùng hình ảnh Di, Tề để nói về việc đi ở ẩn.

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 62

 

“Hai mươi tám sao chơi bốn biển

Chán hư danh hiện diện dáng hình

Gương thềm ngọc thỏ lung linh

Vầng trăng sáng tỏ cung nghinh tiếng đàn

 

Nhập Môn đang chứa chan thơ đọc

Bỗng khách đâu mời mọc thỉnh cầu

Chúa Liêu triệu đến sân chầu

Tôn sư rầu rĩ mái đầu tuyết sương

 

Chức thái sư Liêu vương ép buộc

Bổng lộc nhiều bốc thuốc kê đơn

Tôn sư căm giận oán hờn

Dật dờ sớm tối chập chờn bóng mây

 

Lòng bi phẫn bấy chầy thân phận

Kỳ Nhân Sư tủi hận chẳng ra

Dân tình thống khổ kêu la

Cửa nhà tan nát sơn hà giá băng

 

Thày cáo bệnh chẳng màng chức tước

Sợ triều đình ngờ vực sinh nghi

Nhập Môn chẳng rõ bệnh gì?

Vội vàng chuẩn bị ra đi thăm người

 

Ngư Tiều cũng tức thời biện lễ

Huynh đệ càng tri kỷ tương thân

Đan Kỳ theo lối đi gần

Gió nồm nam thổi đằng vân ráng chiều

 

Trời miền tây tiêu điều cảnh vật

Làn hơi sương phảng phất hồ sen

Non Kiều cây mọc cỏ chen

Hang sâu vực thẳm bao phen tuyết dày

 

Hươu vào động hạc bầy về núi

Ba người vừa cắm cúi bước vào

Thấy ngay Đạo Dẫn đón chào

Mời vào y quán nghẹn ngào trước sau

 

Thày chẳng chịu tự mù đôi mắt

Chốn thiên thai đóng chặt cửa thiền

Xông hai mắt đỏ triền miên

Sứ Liêu cũng chịu lụy phiền não thân

 

Cảnh nước mất nhà tan tang tóc

Dân lầm than kêu khóc khổ đau

Oán cừu thù hận theo nhau

Trẻ già trai gái dãi dầu nắng mưa

 

Nhập Môn nghe nhặt thưa lã chã

Giọt thương người lọ đá nát lòng

Trách thầm Minh Nguyệt Thanh Phong

Không ngăn cản được, hai ông phụ thầy

 

Không cố khuyên để vầy sao nỡ

Cảnh mù lòa món nợ y khoa

Tật tàn đôi mắt ướt nhòa

Di, Tề ẩn dật muối rau qua ngày

 

Nơi non Thú ai hay cam chịu

Chẳng chịu quỳ bám víu nhà Chu

Quản chi rừng núi âm u

Mai danh ẩn tích thiên thu u hoài.“

 

Chúa Liêu ép Kỳ Nhân Sư làm Thái Y trông coi viện thuốc, chăm sóc sức khỏe cho mình, Hoàng hậu, phi tần cung nữ và các quan đại thần. Nhưng Kỳ Nhân Sư không phục, không muốn làm tôi tớ cho ngoại bang, nên Tôn sư tự xông mắt mình mù đi để khỏi phải làm nô bộc, tay sai phục vụ triều Liêu. Truyện thật là bi thảm về cuộc đời một đại danh y thời nhà Tấn tên là Kỳ Nhân Sư.

 

11.5.2020 Lu Hà

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét