Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 54
“Phương thuốc trị tâm thân ưng chịu
Chỗ đau nào mắc míu tới thai?
Xưa nay y biến kỳ tài
Thuận theo thiên ý vạn loài muôn phương
Chương thai dựng bất thường tắc nghẽn
Cứu chữa người thai nghén tận tình
Sách ghi gọi chứng: “ ám kinh“
May không nhơ uế tháng mình mang thai
Có người bảo: “cấu thai” là vậy
Nghén rồi kinh nguyệt thấy tuôn ra
Máu ra thai nghén chẳng sa
Có tên “thai lậu” gọi là huyết dư
Có người nghén năm dư ấy chớ
Thai nằm yên dễ sợ mới sinh
Bởi vì khí huyết trong mình
Gần mười tám tháng bụng phình chửa to
Thật lạ lùng đáng lo ngại lắm
Chứng “quỷ thai” thê thảm buồn thay
“Trưng hà” “bĩ khối” lắt lay
Nhớt nhau hơi huyết đọa đày như thai
Máu đầy chứa ngày dài hư thiệt
Thật kinh hoàng “súc huyết”tang thương
Than ôi! Bệnh biến khôn lường
Giống thai quái đản dị thường xiết bao
Bốn mươi chín tuổi cao thiên quý
Đã dứt đường tục lụy mang thai
Vợ chàng Tịnh Phổ là ai?
Đã hơn sáu chục tuổi ngoài thai mang
Bốn mươi chín tuổi nàng túy lúy
Mới vu quy thiên quý thông thường
Tô Khanh gái rượu phấn hồng
Mới mười hai tuổi lấy chồng có thai
Coi hai chuyện biên ngoài dấu sử
Đừng đắn đo phận sự thế thôi
Biết bao kinh nghiệm trau dồi
Liệu đường biến hiện để rồi kê đơn
Luận y học gặp cơn tai biến
Phải xét suy biểu hiện trong ngoài
Nguyên nhân động đến nội thai
An lòng thân chủ nguôi ngoai mấy bài
Tiều quả quyết trước thai chẩn mạch
Thật rõ ràng dám trách chi ai
Xưa nay nhắc nhở mãi hoài
Gái thì bên hữu tả trai đã đành
Tả di hoạt tật sanh trai đó
Gái hữu di hoạt có thấy không
Chỉ e rắc rối chất chồng
Thai đôi bụng chửa má hồng phôi phai
Coi mạch chủ hai tay sáu bộ
Môn bảo rằng ba bộ mạch đi
Máy trời tạo hóa vân vi
Âm dương hai chữ thịnh suy khác hình.“
Tô Khanh còn gọi là Tô Vũ tên thật Tô Tử Khanh, người đất Đỗ Lăng là một bầy tôi trung của vua Hán Vũ Đế. Thời đó, nhà Hán thường bị giặc Hung Nô ở phương Bắc hay quấy nhiễu, dòm ngó. Tuy là nước lớn nhưng muốn cầu hòa, nên Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi sứ sang Hung Nô.
Sang bên Hung Nô, vì làm phật ý vua Hung Nô (thiền vu), Tô Vũ bị bỏ vào hang, ba ngày không cho ăn để cho chết. Tô Vũ nhờ hớp những giọt sương đêm trên ngù cờ mà sống sót. Thấy lạ, chúa Hung Nô kinh sợ, cho Tô Vũ là thần, không dám hại nữa mà đày đến đất Bắc chăn dê, giao hạn cho tới khi nào dê đực đẻ ra dê con mới được trở về Hán.
Đất Bắc giá lạnh hoang vu, không có người. Tô Vũ ở nơi đi đày, ngày chăn dê, tối ngủ hang đá, thiếu thốn, cực khổ và tuyệt vọng. Gặp mùa chim nhạn thiên di về phương Nam, Tô Vũ viết một lá thư nhờ chim nhạn mang về nhà cho đỡ nỗi nhớ nhung. Hán Vũ Đế tình cờ nhặt được thư mới biết Tô Vũ đang phải chăn dê khổ cực ở phương Bắc.
Ở nơi đi đày, Tô Vũ chỉ còn biết làm bạn với cỏ cây, cầm thú và đã kết bạn tình với một nàng vượn người. Mặc dù cuộc sống của họ là hoang dã nhưng họ luôn âu yếm nhau và đã có với nhau một đứa con. Sau 19 năm, nhờ sự can thiệp của Hán Vũ Đế, Tô Vũ chia tay người vợ vượn người trở về Hán. Điển tích Tô Vũ chăn dê trở thành một đề tài đặc sắc trong thi ca.
Vào khoảng đầu thế k ỷ thứ 2 TCN, một ông vua Đại Nhục Chi bị Hung Nô chém đầu rồi dùng cái sọ làm bình rượu, triều đình Đại Nhục Chi uất hận. Năm 100, Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi sứ Đại Nhục Chi nữa để hai nước liên kết đánh Hung Nô. Dọc đường Tô Vũ bị Hung Nô bắt, không giết mà cũng không cho về, đành phải tạm ở lại Hung Nô, chăn cừu sống với một phụ nữ Hung Nô trong núi, được một đứa con, sau trốn thoát, chịu không biết bao nhiêu gian nan, tới được Đại Nhục Chi, nhưng lúc này họ hết muốn trả thù Hung Nô rồi, chỉ muốn sống yên ổn, làm ruộng, trồng trọt. Tô Vũ đành trở về tay không, trên đường lại bị Hung Nô bắt một lần nữa.
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 55
“Gốc tạng phủ thần linh soi sáng
Thuận ngũ hành năm tháng tạo ra
Vần xoay trong cõi người ta
Vợ chồng con cái mẹ cha an lành
Ngôi chồng vợ tung hoành thuận nghịch
Mẹ cùng con cảm kích dựng xây
Bộ âm tạo mạch dương vầy
Chồng thừa ngôi vợ bấy chầy vào trong
Lại như vợ mở cung cửa lớn
Lấn ngôi chồng bộn rộn ngóng trông
Bộ dương để mạch âm thông
Thong dong tới bậc minh công là hoành
Thừa ngôi mẹ nghịch danh con ngỏ
Mẹ thừa con thuận ở tình nhau
Ung dung bắt mạch xoát cầu
Máy âm dương nhóm biết đầu gái trai
Ba bộ dương mạch ai đó thịnh
Là con trai dự tính chẳng sai
Ba âm mạch thịnh gái thai
Trai đôi tả đới tung hoài mãi thôi
Hữu đới hoành gái đôi hóa dịch
Thành trai ba mạch nghịch tả dương
Gái ba mạch thuận là thường
Hữu âm hình tướng vấn vương truyền lòng
Huyền, khẩn, lao, hoạt, cường yên vị
Chết rõ ràng trầm tế vân vi
Cao tay mạch tượng lỗi gì
Biết ngay thai yểu còn nghi ngại gì?
Bụng bà chửa thai nhi nằm đó
Mấy chứng thai xưa có khảo biên
Sách ghi tử giản tử huyền
Than ôi! Tử thũng, tử phiền, tử lâm
Bao chứng tử hoài nhâm tử khí
Hơi nghén gây tỳ vị đau trong
Tiều rằng chứng giản là phong
Mong manh mạng sống đau lòng nhân gian
Đàm nhiều chứng nguy nan tà ác
Khí hư ra xơ xác âm hao
Hai tay co quắp đau bào
Lậu thai bụng lớn máu trào túa ra
Thai lậu động khác xa là chứng
Thai bình thường mẹ nựng con ta
Tình thương mẫu tử thiết tha
Động là khí bách lậu là nhiệt thương
Lời thai luận biến thường nhiệt thấp
Nội thương bàn hô hấp thấy ai
Khử tà mới giữ được thai
Phong đàm thuốc ấy đúng loài trị an
Chứng huyễn hoặc mê man bất tỉnh
Phải lo toan định tính rõ ràng
Làm sao cho hết mơ màng
Nghén chưa đủ số bụng nàng đớn đau“
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 56
“Bảy tám tháng sau thì chuyển bụng
Nào biết đâu như chứng giả đò
Thày lang bốc thuốc thăm dò
Khù khờ phép tắc lò mò linh tinh
Nửa bốc thuốc thôi sinh ngần ngại
Tháng còn non sợ hại cả hai
Nửa thời hốt thuốc an thai
Còn thừa ngày tháng hoa khai lỗi kỳ
Tiếng sao khỏi lang y họa rước
Thuốc nào hay xin được lưu truyền
Nhập Môn quan sát trước tiên
Luận y thai nghén sách biên tỏ tường
Mười tháng chửa thông thường thai lệ
Cho đến ngày cửa sẽ mở ra
Tử cung co thắt rên la
Lưng đau nhức nhối mắt hoa tối trời
Như dưa chín cuống rời khỏi gốc
Nằm đơ ra hồng hộc cạn dòng
Trái thơm quả ngọt long đong
Gọi là chính sản cầu mong an lành
Bảy tám tháng mong manh yếu ớt
Chứng lộng thai xanh nhợt đuối hơi
Gọi là thí nguyệt nhặt lơi
Bụng đau xâm xỉa tả tơi mặt mày
Kinh nghiệm cho xưa nay khuyên bảo
Con nằm yên mẹ dạo bước chơi
Vẫn chưa đủ tháng chẳng rời
Mẹ yên tâm nhé nụ cười hân hoan
Trời sinh voi chứa chan ngọn cỏ
Luật tự nhiên xin chớ lo phiền
Hỏi tra ngày tháng trước tiên
Ly kinh một mạch coi liền là hay
Chứng lộng thai lắt lay chính sản
Thật hiểm nguy đừng dạn dĩ ngay
Thôi sinh phạm lỗi tắt ngày
Khai hoa chẳng đợi quắt quay kiếp người
Hại thế nhân hại đời thày nữa
Kê đơn liều chẳng chữa người ta
Hãy coi cái kén trứng gà
Đủ ngày mỏ khoét vỏ ra con này
Thuốc an thai dễ hay gây nạn
Đẻ đến ngày thày cản con ra
Nỗi niềm mong đợi thiết tha
Lang băm quậy phá cảnh nhà nát tan
Lộng thai chính sản, bàn tay nắm
Bậc lương y đâu dám kê liều
Cứu người cũng có lắm chiêu
Ly kinh mạch quyết bao điều tử sinh
Một hơi sáu lần ly kinh đến
Hoạt tế trầm mạch chẹn cũng đành
Nửa đêm đau dữ sắp sanh
Ngày mai sẽ thấy sáng danh Chúa trời.“
Ba bài thơ để diễn ng âm là chính, tả sâu vào chuyên môn y học, xin miễn bình giảng giải thích nhiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét