Thứ Tư, 21 tháng 12, 2022

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 201

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 17

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

 

“Nay tổng quát rạch ròi đơn thuốc

Các trò nên học thuộc ghi lòng

Baỷ phương mười tễ cân đong

Thành thang hoàn tán bột trong đan ngoài

 

Phòng thuốc giả đúng sai tỉ mỉ

Bào chế quen mùi vị phân minh

Chớ nên khéo léo cậy mình

Chín thăng sống giáng thuận tình kiêng khem

 

Ngân hoa dễ nhá nhem lợi thủy

Dấm lại càng liên lụy khó thông

Đậu xanh nguyên vỏ không công

Khó bề giải độc ói nồng xình hơi

 

Thảo quả chữa cho người đầy bụng

Để vỏ thành rẻ rúng ngực đau

Viễn chi hắc sửu gặp nhau

Độc càng phát tác trước sau tỏ tường

 

Bồ hoàng sống để thông khí huyết

Nấu chín ăn thì tuyệt vô cùng

Địa du cầm huyết diệt trùng

Trần bì chữa khí màng cung trắng cường

 

Chống phong ngứa cứu dương phụ tử

Chữa phong tê phải có thảo ô

Ngất ngư mầm bệnh cờ hồ

Mỗi khi dùng sống dật dờ hồn mây

 

Nhân ngôn đốt như thày chỉ dẫn

Đá phải nung mới tán dấm ngâm

Xuyên khung loại bỏ âm thầm

Chất dầu nguy hiểm khí âm bềnh bồng

 

Tiều xuân hạ thu đông tác quái

Cả bốn mùa thuốc sái thất thường

Trời già đảo lộn âm dương

Xuân hòa hạ nóng thu hương đông tàn

 

Dẫn căn dặn dân gian trị bịnh

Tùy theo mùa suy tính đắn đo

Mùa nào thuốc ấy thăm dò

Tinh thông y thuật khéo lo chu toàn

 

Vào tiết xuân nồng nàn không khí

Thuốc quen dùng thấm vị thanh lương

Mùa hè nóng nực tăng dương

Từng thang hạ nhiệt thông thường hàn sa

 

Đến mùa thu gần xa man mát

Gió heo may dào dạt tình ca

Dập dìu sóng vỗ giang hà

Trai thanh gái lịch mặn mà yêu nhau

 

Hội hoa bướm khoe màu ân ái

Sợ thời gian quan tái sơn hà

Thu đông vội vã mọi nhà

Đất trời hy vọng thái hòa an khang

 

Bệnh thời khí dễ dàng bột phát

Cảm cúm hay sát phạt đủ đường

Đến coi bắt mạch tận giường

Thuận theo bệnh lý đúng phương thuốc dùng“

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 18

 

“Lắm trường phái tựu trung học tập

Dám so bì cao thấp Đan Kỳ

Lưu truyền đạo hạnh lương y

Non xanh nước biếc lâm ly nẻo nào

 

Danh tiếng thơm xôn xao bốn bể

Đã bao đời kính nể hóa công

Ngày xưa có họ Thần Nông

Viêm Hoàng nếm trải núi sông tôn thờ

 

Khắp muôn nơi trông chờ dược thảo

Kỳ Bá quen giao hảo cứu đời

Nội kinh nổi tiếng một thời

Đất trời cảm tạ bao lời ngợi khen“

 

Thần Nông hay Viêm Hoàng tôi đã bình giảng từ phần trước, xin miễn nhắc lại. Phần bình giảng này tôi nói đến nhân vật Kỳ Bá còn gọi làTừ Tự Bá, tự Thúc Thiệu, là danh y nổi tiếng thời Nam Bắc Triều. Từ Tự bá có đức hiếu, giỏi nói lời thanh nhã, làm quan Chính viên lang, phụ tá các phủ, thường được Vương Ánh ở Lâm Xuyên coi trọng.

 

Một lần nọ, sau khi uống hết 10 thang Ngũ thạch tán (Ngũ thạch tán là một loại thuốc bột được tán nhỏ từ năm loại đá như thạch nhũ, thạch anh tím, thạch anh trắng, đá lưu huỳnh và cao lanh đỏ) cơ thể tướng quân Phòng Bá Ngọc bỗng nhiên sợ lạnh, mùa hè nóng đến mấy cũng phải áo trong áo ngoài mấy lớp. Từ Tự Bá sau khi thăm khám cho ông liền nói với người nhà:

- “Đây là hiện tượng trong thân có phúc nhiệt, cần dùng nước để dẫn động, không tới mùa đông thì không thể trị.”

Đến tháng 11 khi băng tuyết ngập trời, Từ Tự Bá bảo hai người đi cùng tướng quân vào phòng, cởi bỏ quần áo và giữ ông ngồi trên một tảng đá sau đó dùng nước lạnh dội từ đầu tới chân.

 

Sau khi dội liên tiếp ba xô nước, Phòng Bá Ngọc lạnh tới run cầm cập không nói được gì, cảm giác như sắp bị tắt thở. Người nhà tướng quân thấy vậy thì hốt hoảng khóc sướt mướt, xin thái y không dội nước nữa kẻo nguy hại tới tính mạng. Từ Tự Bá thấy vậy sai người lấy một cây gậy, và tuyên bố nếu ai còn tới khuyên can sẽ không nương tay đánh thật đau và tiếp tục dội cả trăm xô nước lên bệnh nhân. Một lát sau mới thấy bệnh nhân có thể hoạt động, lại thấy khi nóng bừng bừng bốc lên sau lưng ông ta. Tiếp đó thấy Phòng Bá Ngọc đứng dậy và nói:

- “Nóng quá, nóng không chịu nổi nữa rồi, ta muốn uống chút nước lạnh”

Từ Tự Bá lấy nước cho ông ta uống, uống liền một hơi tới cả lít nước và bệnh tình cũng được hồi phục. Từ đó mùa đông Phòng Bá Ngọc cũng không sợ lạnh nữa, cơ thể khỏe mạnh thoải mái.

 

Trong Hậu Hán Thư cũng ghi chép một trường hợp chữa bệnh của danh y Hoa Đà tương tự như Từ Tự Bá, chuyện rằng có một người phụ nữ nọ mắc bệnh có tên hàn nhiệt chú. Tới tháng 11, Hoa Đà bảo bệnh nhân ngồi trên một tảng đá, dùng nước lạnh dội từ đầu tới chân. Ban đầu, dội được khoảng 70 xô bệnh nhân lạnh tới run lập cập như chỉ muốn chết xin dừng lại nhưng Hoa Đà không cho phép. Khi dội tới xô thứ 80 nhiệt khí bắt đầu bốc lên cao tới hai ba thước. Khi dội đủ 100 xô nước, nhiệt khí vẫn bao phủ khắp phòng, hồi lâu sau bệnh nhân toát mồ hôi lạnh và dần khỏi bệnh”

 

Sự cao minh của hai danh y Hoa Đà và Từ Tự Bá là ở chỗ vận dụng nguyên lý “thiên nhân hợp nhất” để trị bệnh. Tức lợi dụng đặc điểm năng lượng âm dương bên trong cơ thể người biến đổi thuận theo tiết khí: “Mùa xuân, khí dương tiết ra ngoài, mùa hè mùa thu thì khí âm ở trong thân thể, mùa đông khí dương ở trong thân thể”. Vào sáng sớm ngày Đông Chí, khi mà năng lượng mặt đất từ âm chuyển sang dương, năng lượng khí dương bên trong thân thể bắt đầu sinh ra, lấy nước lạnh dội lên người, khiến cho khí của nhiệt dương bên trong thân thể mau chóng phân tán, theo tình thế mà phân giải, chính gọi là “vật cực tất phản”.

 

“Pho Tố Vấn tương truyền y đạo

Bệnh tật ghi chu đáo đến nay

Hai mươi bốn quyển sách dày

Phân ra tám chục thiên bày rạng danh

 

Từ đại luận thực hành màu nhiệm

Chắng bao giờ dấu diếm mạch kinh

Vẽ đường chỉ dẫn tượng hình

Đủ năm vận khí tận tình theo năm“

 

Để nghiên cứu những chu kỳ lớn ảnh hưởng của khí hậu hàng năm đối với sức khoẻ và bệnh tật con người, Đông-Y có học thuyết “Vận-Khí”

 Học-thuyết “ Vận-Khí” ( Ngũ vận và Lục khí) là một lý thuyết của Đông y nhằm giải thích sự biến hoá của thời tiết, khí hậu và ảnh hưởng của nó đối với con người, đồng thời suy tính, dự đoán bệnh tật cho từng thời kỳ, từng năm.

Thuyết này lấy Âm dương Ngũ hành làm hạt nhân và dựa trên quan niệm chỉnh thể “Thiên nhân tương ứng” mà xây dựng nên.

 

 Đường-Dung-Xuyên đã đặt vấn-đề: “Dược gồm cả côn trùng, thổ thạch, rễ cỏ, da cây…tất cả đều khác với con người, vậy mà nó lại có thể trị được bệnh của con người. Tại sao vậy? Ông tự trả lời:

-“Trời đất chỉ là hai khí âm dương lưu-hành để thành ngũ-vận (Kim, Mộc,Thủy, Hỏa, Thổ), đối đãi nhau mà thành lục khí (Phong, hàn, thấp, táo, hỏa, thử). Con người sống là lấy gốc ở Thiên và gần gũi với Địa , tức là con người bẩm thụ ngũ vận, lục khí để sinh ngũ tạng lục phủ..

 

 Phàm các vật tuy hình dáng khác với con người , nhưng không vật nào không lấy gốc ở khí của Thiên Địa  để ‘Sinh: sống’. Riêng sự vật thì chỉ ‘đắc’ có ‘một’ khí cho nên khác với con người, con người thì bẩm thụ được ‘toàn thể’ khí trong Thiên Địa..

 

 Nay giả-sử khí trong con người nghiêng về thịnh hay nghiêng về suy, như vậy gọi là ‘bệnh’. Người xưa đã mượn một loại dược vật nào đó bẩm thụ được một khí để điều-hòa sự thịnh suy trong thân thể mình. Làm cho thân chúng ta trở lại ‘bình-hòa’.” ( Đây là cách trị bệnh theo Vương Đạo )

 

 Bát-quái chính là qui-luật biến-hóa sinh khắc của âm-dương ngũ-hành mà người ta dựa vào đó dự-đoán bệnh-trạng cũng như thời-gian tử-vong của con người.

 

Trời đất lấy sự thay đổi, suy vượng của ngũ hành để thành tứ thời. Ngũ tạng, Lục phủ của con người cũng “Ứng” theo đó mà suy hay vượng .

 

Tháng Tư thuộc Tỵ, tháng Năm thuộc Ngọ là những tháng đại vượng của hoả khí. Hoả là “Phu”: chồng của Phế kim, khi Hoả vượng thì kim suy. Tháng 6 thuộc Vị (Mùi) là tháng đại vượng của Thổ.. Thổ là “Phu”: chồng của Thuỷ. Khi Thổ vượng thì Thuỷ suy. Vả lại, Thận thuỷ nhờ có Phế kim là mẹ để bổ cho cái bất túc…

 

 Đã từ lâu, âm dương ngũ-hành vẫn bị người ta cho là một danh-từ triết-học trừu-tượng . Trên thực-tế, cái khí của âm dương ngũ-hành cũng là một loại vật-chất , có chất và có lượng. Tuy vậy khoa-học hiện-đại vẫn chưa có cách nào tiến hành sự trắc-nghiệm toàn diện đối với nó. Nhưng y-học hiện-đại thừa-nhận nó là một dạng vật-chất vô cùng tinh-vi ( Khoa học đặt tên cho nó là Nguyên-tử khí), quyết-định sự sanh tử tồn vong của con người. Loại vật chất tinh-vi này, con người nhìn không thấy, sờ không được, nhưng dùng Bát-quái Thiên-can, địa-chi tiến-hành sắp-xếp và ghi chép đối với cơ thể con người .                       

 

“Phép châm cứu cần chăm trị liệu

Trong thời thang dịch cứu mạng dân

Từ Hiên, Kỳ thị bao lần

Trải qua thế kỷ bậc thần y ra

 

Như Biển Thước nhà ta phát triển

Có tám mươi mốt quyển Nạn kinh

Có ông Hoàng Phủ tài tình

Soạn kinh giáp ất thanh minh trăng rằm

 

Trương Trọng Cảnh chẳng ham quyền quý

Hãy coi pho kim quỹ ngọc hàm

Nào ai còn nổi máu tham

Trong ngoài hư thực phép làm bao la

 

 Hoàng Phủ còn gọi l à Hoàng Phủ Mật tự là Sĩ An, khi nhỏ tên Tĩnh, hiệu là Huyền án tiên sinh, người quận An Định (nay là Ninh Hạ, Cố Nguyên), đời Tây Tấn, là nhà châm cứu học nổi tiếng đời Tấn, viết quyển ‘Châm Cứu Giáp Ất Kinh’ hiện còn lưu truyền. Khi còn nhỏ tuổi, ông theo người chú dời chỗ ở đến Tân An (nay là Hà Nam, Miễn Trì). Được gia đình nuông chiều, đã 17, 18 tuổi, ông vẫn không thích học, hàng ngày đi chơi rong.

 

Người ta chê cười là thằng u mê. Người thím thấy tình trạng của cháu, rất đau lòng, ôn tồn khuyến dụ ông với mắt đầy lệ. Ông vô cùng cảm động, thề sẽ hối cải. Ông bắt đầu học tập, nhưng vì nhà nghèo, ông phải luôn mang sách theo mình vừa cày vừa học. Ông học Tứ Thư, Ngũ Kinh và các tác phẩm của bách gia chư tử, khắc khổ học hành cho đến khi hơn 80 tuổi thành một học giả uyên bác, nổi tiếng trong giới văn học và sử học. Ông đã soạn các quyển ‘Đế Vương Thế Kỷ’, ‘Cao Sĩ Truyện’, ‘Dật Sĩ Truyện’, ‘Liệt Nữ Truyện , Huyền Án Xuân Thư và một số thi phú được nhiều người đương thời truyền tụng. Ông sinh ra vào cuối đời Đông Hán, lớn lên ở đời Ngụy của họ Tào, chết ở đời Tây Tấn. Không chịu ra làm quan, triều đình từng nhiều lần triệu mời ông ra làm quan nhưng lần nào ông cũng nại cớ bệnh hoạn từ chối khéo

 

Năm 42 tuổi, ông bỗng bị bán thân bất toại,  điếc, thân thể đau nhức. Nhưng bệnh tật không hề làm cho ông mất đức tin và ý chí, ông nằm trên giường bệnh nghiên  cứu y học, nghiên cứu sâu các sách ‘Tố Vấn’, Châm Kinh’, ,Minh Đường Khổng Huyệt Châm Cứu Trị Yếu và các tác phẩm của Trương Trọng Cảnh, Vương Thúc Úroa, tìm phương pháp trị liệu châm cứu trị chứng phong tê của mình. Trải qua một thời gian dùng kim châm, bệnh phong tê của ông giảm bớt rõ rệt, làm cho ông nảy sinh ý kiến chỉnh lý tư liệu châm cứu. Ông tổng hợp ba bộ sách thuốc ‘Tố Vấn’, ‘Châm Kinh’, ‘Minh Đường Khổng Huyệt Châm Cứu Trị Yếu, biên soạn thành một bộ Châm Cứu học là ‘Châm Cứu Giáp Ất Kinh’ giúp cho nền châm cứu học xác lập được qui phạm, được chuyên môn hóa và hệ thống hóa hơn. ‘Châm Cứu Giáp Ất Kinh’ đã lập định cơ sở cho ngành châm cứu trị liệu học, đối với sự phát triển châm cứu học Trung Quốc, có tác dụng thúc đẩy rất lớn. Ông bệnh mất tại Triều Na, hưởng thọ 67 tuổi.

 

 

Trương Cơ tự Trọng Cảnh  là một thầy thuốc Trung Quốc hoạt động vào cuối đời Đông Hán. Ông được coi là một trong những nhân vật quan trọng nhất của lịch sử Đông y vì những đóng góp mang tính hệ thống về cả lý luận và thực nghiệm. Tác phẩm quan trọng nhất của ông, Thương hàn tạp bệnh luận, tuy đã thất lạc trong giai đoạn Tam Quốc nhưng sau đó đã được tổng hợp lại thành hai tập sách Thương hàn luận và Kim quỹ yếu lược, đây là hai trong bốn bộ sách quan trọng nhất của Đông y. Tuy là thầy thuốc danh tiếng bậc nhất trong lịch sử China. tiểu sử của Trương Trọng Cảnh lại ít được biết tới. Trong sách Hậu Hán thư cũng không dẫn truyện về ông. Có tài liệu cho rằng ông sinh tại Nam Dương, Hà Nam, sau đó giữ một chức quan ở Trường Sa, Hồ Nam và sống trong khoảng giai đoạn cuối thời nhà Hán.

 

Sống và làm việc trong thời tao loạn cuối nhà Hán, Trương Trọng Cảnh đã tập hợp các tài liệu y học cổ như Tố vấn, Cửu quyển, Bát thập nhất nạn, Âm dương đại luận, Đài lư dược lục, Bình mạch biện chứng và kinh nghiệm cá nhân để viết ra tác phẩm y học xuất sắc Thương hàn tạp bệnh luận; gồm 16 quyển. Tác phẩm này sau đó đã bị thất lạc trong thời Tam Quốc nhưng được người đời thu thập lại trong hai tập sách có tên Thương hàn luận  và Kim quỹ yếu lược. Hai tập sách này cùng với Hoàng Đế nội kinh của Hoàng Đế và Nạn kinh của Biển Thước được coi là bốn bộ sách quan trọng nhất của Đông y (Nội nạn thương kim). Cho tới nay cả Thương hàn luận và Kim quỹ yếu lược đều đã được sửa đổi nhiều lần. Những đóng góp mang tính cơ sở của Trương Trọng Cảnh khiến ông được xưng tụng là "Thánh y"  của Đông y.

 

“Từ Lưu Tử nối ra vô tận

Tới Hà Gian tinh tấn hai pho

Đông Viên họ Lý trời cho

Mười pho bạt tụy đo dò thâm sâu

 

Miền Đan Khê thày Chu để lại

Sách thuốc kia mấy đại pho kinh

Đều từ nội lực trong mình

Diễn ra hóa giải tướng tinh cứu người

 

Y thư kể các nơi chẳng hết

Đàn trâu kêu khẩn thiết cột nào?

Sách nhiều vô kể xiết bao

Học trò tính học bộ nào cho hay

 

Bào Tử Phược mong thày chỉ giáo

Mộng Thế Triền thế đạo xưa nay

Thánh hiền trăm bộ chuyên tay

Dẫn cười chú giải lỗi dày chuyên tâm

 

Xét nguồn gốc mở tầm tra cứu

Sách bách gia hai chữ ” Chiết trung”

Đạo đời kinh nghiệm của chung

Lương y từ mẫu tận cùng tâm can“

 

Lưu Hoàn Tố tự là Thủ chân, hiệu Thông Huyền xử sĩ, nguyên quán ở huyện Túc Ninh, Hà Bắc, lúc nhỏ vì nạn lụt cả nhà dời đến phủ Hà Gian (nay là Hà Gian, Hà Bắc), cho nên người đời sau cũng gọi ông là Lưu Hà Gian. Về sau, quân Kim xâm lược xuống miền Nam, diệt nhà Bắc Tống, dân chúng trở thành dân nhà Kim, ông là người đúng đầu .

 

trong ‘tứ đại gia’ đời Kim, Nguyên, nhân vật đại biểu cho Hàn lương phái. Ông xuất thân ở nhà nghèo khổ, năm mười lăm tuổi mẹ bệnh, ba lần rước thầy trị không khỏi nên chết. Ông quyết lòng học y, trước theo thầy Trần Hy Di, được thầy truyền nghề. Năm hai lăm tuổi bắt đầu nghiên cứu sâu quyển ‘Tố Vấn', suất ngày không rời sách đến năm sáu mươi tuổi, nắm được chỗ yếu diệu của sách.

 

Hơn nửa đời người, ông hành nghề ở mạn Hà Bắc. Cửa nhà ông ồn ào như chợ, người đến xin trị bệnh đông đúc. Có số con bệnh sốt cao đến hôn mê bất tỉnh, được ông châm kim và cho uống thuốc rất mau khỏi, ông cũng thường đi khắp nơi xem mạch, cho thuốc. Vì y thuật của ông cao minh, vua Kim Chương tông Hoàn Nhan Cảnh từng ba lần triệu ông ra làm quan, ông đều từ chối. Triều đình ban cho ông danh hiệu 'Cao thượng tiên sinh’.

 

Đối với học thuyết ‘vận khí’ của sách ‘Nội Kinh ông có công nghiên cứu sâu dày. Học thuyết này chiếm một vị trí trọng yếu trong tư tưởng học thuật của ông. ‘Vận khí’ là người xưa dùng sự chuyển vận của ngũ hành, lục khí để thuyết minh có sự quan hệ giữa tật bệnh với qui luật khí hậu biến hóa trong tự nhiên ông xác nhận rằng không biết vận khí mà muốn hành y không sai sót là sự ít có vậy’ (Bất tri vận khí nhi cầu ý, vô thất giả tiểu hỷ). Và ông đem hết sức ra nghiên cứu để kết hợp học thuyết này với việc trị liệu thực tiễn. Ông đem ‘ngũ vận lục khi’ làm cương lĩnh, phân loại tật bệnh và làm nhân tố gây bệnh, đồng thời dựa trên nguyên nhân gây bệnh mà chữa trị, ra đơn thuốc. ông phản đối những người theo học thuyết vận khí một cách máy móc, nghĩ cố định rằng khí nào làm chủ năm nào, tất nhiên phát sinh bệnh nào, và cũng phê phán quan niệm ‘tú mệnh luận’ cho rằng thân thể ngươi ta phát bệnh là hoàn toàn chịu sự chi phối của ngũ vận lục khí. Quan điểm này của ông có ảnh hưởng rất lớn đối với y gia đời sau. Trong thời đại ông sinh sống, bệnh nhiệt tính tương đối thịnh hành, cho nên trong lý luận y học, ông đề xướng ‘hỏa nhiệt luận’, mà khi dùng thuốc trị bệnh ông cũng thiên về ‘hàn lương’ (thuốc uống cho mát); vì vậy mà đời sau cho ông thuộc ‘hàn lương phái’.

 

Thời kỳ Tống, Nguyên, một số thầy thuốc chịu ảnh hưởng ‘cục phương’ (đơn thuốc được Chính phủ chấp nhận) Do chính quyền Tống ban định, dùng thuốc phần nhiều thiên về cay nóng. Vì thế mà khi hàn lương phái ra đời, trong giới y học đương thời nổi lên cuộc tranh luận kịch liệt, có một số người cho ông không tuân phép nước, tự bày dị đoan, đề xuất gây khó khăn cho ông. Nhưng thực tế chứng minh rằng lý luận của ông là chính xác. Học thuyết mới do ông sáng lập căn cứ trên tình huống thục tế, chẳng những phong phú hóa kho báu lý luận của y học tổ quốc, điện định cơ sở của học thuyết ‘bệnh nóng’ cho hậu thế, mà còn phấn phát tư tưởng học thuật, đả phá tinh thần bảo thủ đương thời, mở màn cho sự tranh luận y học của thời kỳ Kim, Nguyên, đã cống hiến lớn lao cho vấn đề xúc tiến sự phát triển ngành y học Trung Quốc.

 

Ông trước tác rất nhiều; các sách tiêu biểu cho tư tưởng học thuật của ông chủ yếu có ‘Tố Vấn Huyền Cơ Nguyên Bệnh Thức’, ‘Tuyên Minh Luận Phương’, ‘Tố Vấn Yếu Chỉ’, ‘Thương Hàn Trực Cách’, những di sản y học quí báu để lại cho đời sau. Ông hưởng thọ tám mươi tuổi

 

Danh y Lý Đông Viên tên thật là Lý cảo, tự Minh Chi. Khi về già thì ông lấy hiệu là Đông Viên Lão Nhân. Ông là người đời nhà Kim ở Chân Định. Nay thuộc huyện Chính định, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.

 

Lý Đông Viên được biết đến là một trong tứ đại Danh Y thời nhà Kim – Nguyễn. Ông cũng là người đặt ra nên tảng cho học thuyết tỳ, vị trong đông y sau này. Ngày nay thì trong Đông y có hẳn cả một trường phái theo học thuyết này của ông. Trường phái bổ thổ, lấy tỳ vị làm gốc mà luận bệnh

Lý Đông Viên xuất thân trong một gia đình giàu có. Khi còn nhỏ, ông đã đam mê y học. Ngày xưa ở Dịch Châu, có một vị danh y rất nổi tiếng tên là Trương Nguyên Tố. Đông Viên bèn gom cả ngàn vàng để tìm thầy học y. Chỉ sau vài năm theo thầy, ông đã học được hết y thuật của thầy Trương. Không những thế mà tên tuổi ông còn hơn cả thầy mình. Lý Đông Viên chủ trương điều trị về thương hàn, nhọt lỡ, ung thư, đau mắt và thủy cổ. Bệnh thủy cổ là bệnh bụng trướng nước, gần giống với bệnh cổ trướng ngày nay. Ông thường hay chữa những bệnh khó là và nguy hiểm. Nên người thời bấy giờ đều xem Lý Đông Viên như một vị t

 

Ông cho rằng trong cơ thể con người, thì tỳ và vị là tạng phủ quan trọng nhất. Nó chi phối các hoạt động và sinh lý trong cơ thể. Vì thế ông lập ra thuyết “nội thương tỳ vị, bách bệnh do sinh“. Nghĩa là trăm thứ bệnh sinh ra, đều do tỳ vị bị tổn thương mà gây nên. Sau đó, ông viết để lại quyển “tỳ vị luận” để giới thiệu vì học thuyết này của mình. Bộ sách “tỳ vị luận” này gồm có 3 quyển: thượng, trung, hạ.

 

Những bộ sách nổi danh, được danh y Lý Đông Viên để lại gồm có. Tỳ vị luận, lan thất bí tàng, nội ngoài thương biện hoặc luận. Vì ông rất giỏi trong cách dùng thuốc ôn bổ tỳ vị. Và cũng là người sáng lập ra trường phái bổ thổ. Cho nên người đời sau tôn ông với danh xưn “bổ thổ chi phái”.

 

9.4.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét