Thứ Tư, 21 tháng 12, 2022

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 205

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 25

 

“Phải nhẫn nại ươm tằm gieo hạt

Đừng chủ quan con hát mẹ khen

Hạ công chăm chỉ luyện rèn

Mưa lâu thấm đất đua chen vội gì

 

Kinh tố vấn thầm thì mây gió

Chẳng sờn lòng chăng chớ trăng sao

Có ngày y thuật lên cao

Ngư tiều đứng dậy nghẹn ngào chắp tay

 

Lời dạy bảo thẳng ngay chính trực

Cánh cửa trường thao thức ân cần

Khai thông trí tuệ tinh thần

Nhãn quan rộng mở canh tân nhân loài

 

Từ đáy giếng trần ai sáng tỏ

Ếch nhảy lên rộng mở chân trời

Bệnh tình thẩu triệt tới nơi

Cứu nhân độ thế đạo đời tiên phong

 

Đừng ẩn dật long đong bờ bụi

Ngày tháng dài sầu tủi vì đâu

Bấy lâu cam chịu cơ cầu

Khinh tài trọng nghĩa theo câu ngũ thường

 

Dẫn càng tỏ khiêm nhường bè bạn

Học theo ta giới hạn còn nhiều

Tay nghề chẳng đáng bao nhiêu

Cỏ cây vò võ bóng chiều hoàn hôn

 

Trí mênh mông biển cồn sóng giật

Vượt đại dương y thuật nhập môn

Gần xa thiên hạ có đồn

Đạo cao muôn trương linh hồn sáng soi

 

Bậc chân nhân xét coi kinh sử

Tài văn chương sĩ tử thông thiên

Phun châu nhả ngọc thánh hiền

Sân Trình cửa Khổng xứng tên Đan Kỳ

 

Tài tám đấu lâm y chen chúc

Đầy năm xe thảo dược luận bàn

Cao nhân hội đủ dân gian

Tinh thông y thuật muôn vàn hân hoan

 

Sinh bất phùng thần nan nhân thế

Phần chuyên môn đồ đệ theo nhau

Giao lưu chia sẻ trước sau

Phải nhường mấy bước đứng đầu y sinh

 

Ngư tiều càng tỏ tình ái mộ

Nói thật ra người đó vốn quen

Cơm niêu nước lọ sách đèn

Lưng đeo ống quyển bao phen chõng lều

 

Cơn gió chướng tiêu điều chiếc lá

Cội nguồn xưa cuội đá sắt son

Bao năm cũng chẳng sói mòn

Ban xưa tung tích nước non xa vời

 

Đường quan lộ tả tơi bức bách

Sóng đại dương thuyền rách vùi chôn

Động lòng trời đất sinh tồn

Danh y chẳng thẹn suy tôn đạo đời.“

 

Mục đích của tôi là bình giảng thơ mình sáng tác ra được nghệ sĩ Trần Thu Hà diễn ngâm, tôi không chú trọng vào bình thơ tự khen chê thơ mình hay dở, tuyệt tác ra sao? Tôi muốn giúp các bạn khi nghe thơ hiểu những câu những điển tích lạ, hay những chữ khó hiểu nhất. Ví dụ đoạn thơ này có cụm từ:“ Kinh Tố Vấn“

 

Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn là bộ sách y học cổ truyền lâu đời của phương Đông và là tài sản riêng của y học cổ truyền Trung Hoa. Bộ sách cấu tạo theo thể thức hỏi và đáp trong cách chẩn trị kinh mạch.

Những nhà y học cổ truyền thâm hậu xưa nay như Hoa Đà, Biển Thước, Y Doãn của Trung Hoa cổ, như Hải Thượng Lãn Ông, Tuệ Tĩnh của nước ta, đều coi bộ Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn là cuốn sách gối đầu nằm trong việc nghiên cứu, chuẩn trị, bổ, tả, liệu dược các bệnh nhân và truyền thụ cho các y sinh.

Cuốn sách Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn là một trong những bộ cổ thư có giá trị nhất của nền đông y cổ như Linh Khu, Tố Vấn, Nạn Kinh, Mạch Quyết, Kim Quĩ, Thương Hàn... mong cung cấp cho các lương y Đông Dược và các nhà nghiên cứu tài liệu tham khảo tìm biết nền y học cổ phương Đông.

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 26

 

“Theo Đạo Dẫn tới nơi bạn cũ

Đường Nhập Môn cư ngụ nhiều năm

Tiếng thơm bát ngát trăng rằm

Rừng thơ thảo dược ươm tằm nhả tơ

 

Y thuật cao giấc mơ bao kẻ

Quản ngại chi ngày lẻ tháng dư

Gần xa nô nức nhân từ

Sang hèn chẳng kể thiên tư tuyệt vời

 

Bước vào cửa nụ cười đôn hậu

Bậc chân nhân trần cấu dám bì

Còn ai nam tử tu mi

Cao nho đạo hạnh nhâm nhi chén trà

 

Đã bao lâu sơn hà nhung nhớ

Gặp lại nhau nào nỡ dửng dưng

Hân hoan tay bắt mặt mừng

Vườn xuân chim hót tưng bừng nở hoa

 

Kẻ phong trần nhạt nhòa nước mắt

Người non mây y thuật tinh tường

Xôn xao đệ tử học đường

Cao thâm đạo hạnh thập phương nương nhờ

 

Kể từ lúc sa cơ lỡ vận

Hội mây rồng lận đận quan trường

Thanh khâm món nợ tha phương

Giang hồ lưu lạc chán chường thị phi

 

Đất U Yên thê nhi tao ngộ

Khói tro tàn thống khổ tang thương

Thiên tai dịch hạch thê lương

Đồng hoang cỏ dại cương thường đảo điên

 

Lũ cường hào bạc tiền trên hết

Bầy tham quan hủy diệt môi trường

Mở toang cửa ải biên cương

Khiết Đan xâm lấn Tấn Vương ươn hèn

 

Chẳng chịu nhục bon chen luồn cúi

Nước non nhà buồn tủi xót xa

Bạn xưa theo học trường ta

Bùn nào nhơ bẩn sen nhà đầm quê

 

Thắp nén hương nguyện thề sư phụ

Chắp hai tay ngư phủ tiều phu

Tiếng thơm để lại ngàn thu

Vai mang túi thuốc ngao du cứu người

 

Đường Nhập Môn mấy lời căn dặn

Đọc sách y khí vận nhiều tòa

Trời đông gặp gió tây qua

Hai nơi ấm lạnh bất hòa vần xoay

 

Thời tiết cũng quắt quay tráo trở

Hai ngươi đừng thấy đó bực mình

Kê đơn bốc thuốc tận tình

Cầm tay bắt mạch cứu tinh nhân quần

 

Câu vạn bệnh hồi xuân nên nhớ

Đợi Đông quân tỏ rõ chúng sinh

Chủ trương hai chữ khô vinh

Ý trời đã định thánh minh giao hòa“

 

Khiết Đan hay Khất Đan  âm Hán-Việt tên gọi của một dân tộc du mục Khitan (tiếng Ba Tư) từng tồn tại ở Trung Á và Bắc Á. Dân tộc này từng phát triển thành tổ chức quốc gia Liêu quốc, tồn tại và kiểm soát phía bắc China. Sau khi bị người Nữ Chân đánh bại, họ chuyển sang phía tây và giữ được tổ chức nhà nước, được sử Trung Quốc gọi là Tây Liêu, các tài liệu phương Tây gọi là Hãn quốc Kara Khitai. Vương quốc này tồn tại cho đến khi bị đế quốc Mông Cổ tiêu diệt.

 

Dân tộc Khiết Đan bắt nguồn từ một nhánh du mục Đông Hồ hoặc Hung Nô. Sách Ngụy thư lần đầu tiên ghi nhận, vào thời Bắc Ngụy, người Khiết Đan là một dân tộc thượng võ, dũng mãnh, phát triển mạnh lên và di chuyển địa bàn sinh sống này dọc theo vùng thượng lưu sông Liêu.

 

 

Nhà Liêu hay triều Liêu còn gọi là nước Khiết Đan là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử China, vận nước kéo dài dài 331 năm, đối kháng kéo dài với triều Tống ở phía nam.

 

Nhà Tấn là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã Viêm thành lập, sau thời kỳ Tam Quốc với việc Tấn đánh chiếm Đông Ngô.

 

Có hai giai đoạn lịch sử của nhà Tấn. Nhà Tây Tấn  là sự kế tục của Tào Ngụy sau khi Tư Mã Viêm chiếm quyền lực, và có thủ đô tại Lạc Dương hoặc Trường An. Tây Tấn thống nhất nước T àu , nhưng sau đó bị rơi vào một cuộc nội chiến và cuộc xâm lược của Ngũ Hồ. Miền Bắc bị xâm chiếm, cát cứ và bị chia tách thành Ngũ Hồ thập lục quốc. Các quốc gia nhỏ này đánh lẫn nhau và với nhà Tây Tấn, chuyển sang giai đoạn thứ hai của lịch sử triều đại, nhà Đông Tấn khi Tư Mã Duệ chuyển kinh đô về Kiến Khang (Nam Kinh ngày nay). Cuối cùng Đông Tấn bị nhà Lưu Tống tiêu diệt năm 420.

 

Nhà Tây Tấn bắt đầu hình thành quyền lực từ Tư Mã Ý, đại thần nhà Ngụy thời Tam Quốc. Sau khi Ngụy Minh đế Tào Duệ qua đời, vua nhỏ Tào Phương không có thực quyền, cha con Tư Mã Ý trở thành quyền thần.

 

Tư Mã Ý chết, hai con Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu thay nhau nắm quyền. Ngay năm sau, Tư Mã Sư phế Vua Ngụy Tào Phương, lập Tào Mao. Sư qua đời, Tư Mã Chiêu một mình nắm quyền. Tào Mao muốn trừ khử Chiêu, bị Chiêu ra tay giết và lập Tào Hoán lên thay, tức Ngụy Nguyên đế.

 

Sẵn có tiềm lực cả về kinh tế, dân số, về mặt quân sự, họ Tư Mã nắm quyền nước Ngụy là mạnh nhất trong số ba nước. Nước Thục và Ngô có dân cư thưa thớt hơn và ít của cải hơn, do đó dần dần bị nước Ngụy lấn át.

Bản đồ Trung Quốc thời Tây Tấn

 

Sau nhiều năm vừa trấn áp sự chống đối của những người trung thành với nhà Ngụy để củng cố quyền lực, vừa chống trả thành công những cuộc xâm lấn của Ngô và Thục, họ Tư Mã quyết định đánh Thục khi nước này đã suy yếu và nội bộ mất đoàn kết.

 

Ngụy đánh Thục và nhanh chóng tiêu diệt chiếm Thục , vua Thục là Lưu Thiện đầu hàng.

 

Khi Tư Mã Chiêu qua đời. Con cả Chiêu là Tư Mã Viêm lên thay. Tào Hoán thiện nhượng cho Tư Mã Viêm lên ngôi hoàng đế lập ra nhà Tấn, tức là Tấn Vũ đế. Tư Mã Ý được truy tôn làm Tuyên đế, Tư Mã Sư làm Cảnh đế, Tư Mã Chiêu làm Văn .Tấn Vũ đế chinh phục nốt nước Ngô, bắt Vua Ngô là Tôn Hạo.

 

25.4.2020 Lu Hà

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét