Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2019

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 60


Hồng Nhan Bạc Mệnh (6)

Video số 6 này Thu Hà ngâm thật là tuyệt vời. Đoạn Hồng Nhan Bạc Mệnh này dài 60 câu tôi nghe không thấy chán, càng nghe càng ham vì các câu thơ bìu ríu tha thiết quấn quít nhau vần điệu rất khít. Theo tôi có thể nói là chỉn chu về thanh luật lục bát. Nên tôi thích thú quá mà gõ luôn một tràng liên thanh cũng thơ lục bát tặng nghệ sĩ Thu Hà.


Mủi Lòng Cát Sĩ
cảm xúc khi nghe Thu Hà ngâm video số 6

Đoạn này dài sáu mươi câu
Giọt mưa cẩm tú ngọc châu tuôn trào
Thu Hà nước mắt nghẹn ngào
Ba trăm năm khóc má đào tàn phai

Đất trời sầu thảm bi ai
Đoạn trường cung nữ canh dài khổ đau
Than ôi! hương phấn phai màu
Ngày xuân nông nổi trầu cau lỡ làng

Nửa vòng trái đất mênh mang
Mủi lòng cát sĩ khói nhang nấm mồ
Cỏ khâu đom đóm san hô
Chập chờn sóng biển sông hồ biệt ly

Oán hờn xuống cả âm ty
Hồn ma xiêm áo nhung y thì thào
Lầu trang ủ rũ cánh đào
Gió đông cười cợt cảnh nào buồn hơn?

Nửa đêm gà gáy đòi cơn
Cung đàn bạc mệnh chập chờn bướm bay
Tham mùi phú quý ai hay
Hang hùm nọc rắn đọa đày não nhân

Tiếng thơ nức nở muôn phần
Nguyễn Du phảng phất thương thân nàng Kiều
Đông di thảo mộc sớm chiều
Côn trùng rên rỉ phiêu diêu nỗi mình!

1.11.2019 Lu Hà

“ Đêm mong ngày nhớ hoài vương
Năm canh sáu khắc cố hương sụt sùi
Bóng đèn u tịch ngậm ngùi
Ngoài sân giá lạnh đất vùi dế giun“

Cảnh ngộ nàng cung nữ có khác chi nàng Kiều nhớ cha mẹ và người yêu là chàng Kim Trọng ở quê nhà. Cung nữ theo tôi còn đau khổ ê chề hơn cả đời một cô kỹ nữ lầu xanh mà tôi mô tả trong tập Tài Mệnh Tương Đố:

“Kiều thơ thẩn tủi hờn non nước
Quê hương người thao thức bơ bơ
Hai thân tựa cửa đứng chờ
Nắng mưa Lai Tử hững hờ nỡ sao?

Buồn cửa biển lao xao sóng vỗ
Đàn hải âu lố nhố xa xăm
Cặp đôi dưới ánh trăng rằm
Ngàn dâu xanh ngát con tằm nhả tơ

Buồn ngọn cỏ hồn thơ ngơ ngẩn
Man mát trôi lận đận cánh hoa
Thương mình ứa lệ nhạt nhòa
Xứ người cô quạnh thềm hoa não nùng

Cơn gió thoảng chập chùng biển cả
Nhớ tình quân ngọc đá chưa tan
Cách xa muôn dặm quan san
Đêm nằm mộng tưởng nồng nàn ái ân“

Hay là:

“Kiều ngao ngán nét ngài ủ rũ
Buối chiều tà chuyện cũ rối bời
Tình quân góc bể chân trời
Cù lao chín chữ lệ rơi đôi hàng

Nhớ lời nguyện bẽ bàng thục nữ
Kim Lang ôi thiếp phụ chàng rồi
Mười hai bến nước nổi trôi
Ngậm ngùi hỏi liễu xa xôi Chương Đài

Cành xuân bẻ trần ai chăng chớ
Xót ngươi cùng cảnh ngộ quan san
Giấc mơ  khắc khoải canh tàn
Đoạn trường trong sổ hồng nhan hãi hùng“

Bình giảng tiếp Hồng Nhan Bạc Mênh. Mong mọi người theo dõi bám sát từng câu thơ và mọi tình tiết liên đới trong tâm tư người cung nữ.

“Chuông rền chớp giật mưa phun
Ngó qua song cửa mây đùn non xa
Còn đâu xiêm áo thướt tha
Nương thân vách quế xế tà tịch dương

Bởi tay Nguyệt Lão chủ trương
Chẳng xe thì chớ chân giường cột dây
Chim lồng cá chậu đọa đầy
Thâm nghiêm kín cổng tường xây lối về”

Cảnh cung nữ làm vợ lẽ hờ cho vua chẳng khác chi cảnh giam cầm tù ngục, con chim trong lồng con cá trong chậu, một cuộc đời tăm tối không có ánh sáng tự do.

“Ngẩn ngơ nuối tiếc đê mê
Xuân đào năm ngoái tràn trề yến anh
Chim khôn cúc trái trên cành
Còn đâu cảnh cũ năm canh não nề

Hoa vầy ong bướm chán chê
Ký sinh vô vị dầm dề hóa công
Hoàng hôn rèm rủ phòng không
Đốt lò hương khóc mênh mông khói sầu”

Xuân đào năm ngoái ví người cung nữ có nhan sắc như hoa đào. Tich chuyện xưa kể rằng: Thôi Hộ đời Đường nhân ngày tết thanh minh đi tảo mộ hóa vàng có ghé vào một trang trại xin chén nước trà của một cô thiếu nữ đứng ở cửa ngõ bên cạnh cây đào. Người con gái mời chàng chén nước trà và nhìn Thôi Hộ bằng cặp mắt hữu tình. Năm sao cũng vào dịp lễ Thanh minh, Thôi Hộ quay trở lại
muốn gặp lại cô gái đó, nhưng không thấy mới đề một bào thơ cài trước cửa:
“Khứ niên kim nhật thử môn trung
Ngân diện đào hoa tương ánh h ồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiểu đông phong“

Ngày này năm ngoái đến thăm thấy người đẹp và hoa đào nở. Năm nay chỉ thấy gió đông và chẳng thấy người đó đâu, hoa đào diễu cợt với gió đông. Tới năm thứ ba Thôi Hiệu lại ghé qua thì thấy trong nhà cửa đóng có tiếng khóc ai oán. Hỏi ra mới biết cô gái đó vì bài thơ của Thôi Hộ năm ngoái mà ốm tương tư đã chết rồi. Hộ xin vào thăm đến bên tử thi gọi to lên rằng: “Có Thôi Hộ đến đây, tác giả bài thơ “Đề Đô Thành Nam Trang“. Cô gái tưởng đã chết rồi bất ngờ tỉnh dậy và sau đó họ kết thành vợ thành chồng.

Trong sinh học và sinh thái học, có một loài là gọi ký sinh, sống bám vào loài kia là vật chủ hay ký chủ. Sinh vật ký sinh và ký chủ có thể là động vật hay thực vật. Trong y học, ký sinh trùng hay động vật ký sinh là sinh vật chiếm sinh chất của các sinh vật khác đang sống để tồn tại và phát triển. Trong tự nhiên rất nhiều sinh vật tự kiếm lấy thức ăn cho mình nhưng ký sinh trùng phát triển theo hướng khác, chúng sống gửi, sống bám hoàn toàn hoặc một phần vào loài khác, như giun móc hay ký sinh trùng sốt rét. Những động vật ký sinh điển hình như các loài giun sán ký sinh trong ruột, chấy rận ve ký sinh ngoài da vật chủ. Những thực vật ký sinh điển hình như các loài cây tầm gửi và tơ hồng. Người cung nữ tự ví mình như loài ký sinh sống dựa vào nguồn thực phẩm do nhà bếp của triều đình cung cấp, chả làm gì suốt ngày vào ra trang điểm ngóng vua tới thăm để cốt sinh ra một đứa con. Nhưng vua không thèm bén mảng ngó ngàng gì nên đốt lò hương mà khóc.

“Bực mình muốn đạp gác lầu
Vầng trăng cô quạnh bóng câu muộn màng
Ôm cầm gảy khúc trễ tràng
Đông ri thảo mộc dở dang khối tình“

Cổ cầm là một loại nhạc cụ  bên Tàu gồm có 7 dây. Theo truyền thống được các học giả và sĩ phu yêu thích và xem là loại nhạc cụ thanh nhã, tinh tế, như được nhấn mạnh trong thơ văn: quân tử không thể rời cầm hay sắt tiền thân đàn tranh của Việt Nam. Tương truyền, vua Nghiêu là người phát minh ra đàn cổ cầm.

Đông ri thảo mộc hay là Đông trùng hạ thảo là một loại đông y dược phẩm quý có bản chất là dạng ký sinh của loài nấm. Nó được sử dụng từ lâu trong y học cổ truyền Trung Hoa và y học cổ truyền Tây Tạng. Tên gọi đông trùng hạ thảo là xuất phát từ quan sát thực tế khi thấy vào mùa hè nấm mọc chồi từ đầu con sâu nhô lên khỏi mặt đất. Vào mùa đông thì nhìn cặp cá thể này giống con sâu , còn đến mùa hè thì chúng trông giống một loài thực vật hơn.

“Hiên tây ảm đạm điêu linh
Quảng Hàn hiu quạnh một mình Hằng Nga
Vén mây ngó khắp sơn hà
Cuốc kêu khắc khoải gia gia nhớ nhà“

Hằng Nga sau khi ăn vụng tiên đan liền bay lên trời. Ngọc Hoàng biết được liền thưởng cho nàng con thỏ bạch và cho ở cung Quảng Hàn tức mặt trăng.  Ngô Cương là lính gác Nam Thiên môn, tình cờ gặp được Hằng Nga, vì thế ở lại cung Quảng Hàn chơi một ngày, kết quả là vì đi chơi trong giờ làm khiến Ngọc Đế tức giận mà phạt làm đày tớ ở cung Quảng Hàn. Ngô Cương vốn là người đốn củi, hằng ngày chặt cây quế, không chăm chỉ làm việc nữa mà lười biếng thích nghỉ ngơi, khi đó cây quế liền chậm dãi lành lại, ngày qua ngày, Ngô Cương vẫn không thể hoàn thành công việc, nên vĩnh viễn phải chặt cây. Việt Nam thì  quen gọi là chú Cuội.
Cuốc kêu khắc khoải cái gia gia có nguồn gốc từ bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan:

Qua Đèo Ngang

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.“

“Oán hờn thay phận đàn bà
Dốc bình phấn mốc tiếng gà ỉ ôi
Da nhăn nhưng vẫn cố nhồi
Son khô móc cặn đứng ngồi chẳng yên

Hết thời thong thả phẩm tiên
Tay phàm hờ hững vô duyên chán chường
Vắng tanh hơi lạnh thê lương
Chênh vênh kim ốc bi thương hãi hùng“

Phẩm tiên chỉ người con gái trong trắng băng tuyết ngọc ngà. Nhưng chẳng may lại rơi vào tay phường vô lại như đoạn thơ tôi mô tả trong tâp Tài Mệnh Tương Đố:

“Họ mã vội rước về biệt phủ
Khóa buồng xuân trướng rủ màn che
Ngại ngùng sương gió e dè
Lòng đau ruột thắt bóng đè đào tiên

Phẩm thơm nức đòi phen suồng sã
Biết rồi đây vàng đá phôi phai
Hoài công gìn giữ cho ai
Nhị hồng thà bẻ u hoài thở than

Người chung thủy quan san ngàn dặm
Giờ ở đâu thê thảm thế này
Trùng phùng thỏa ước hương say
Còn đâu hy vọng đắng cay nỗi lòng

Thân bồ liễu long đong tứ hải
Áng mây Tần quan ải mù sương
Chôn nhau cắt rốn cố hương
Ngậm ngùi gió Sở tha phương xứ người

Kiều càng nghĩ càng rơi nước mắt
Sẵn con dao gói chặt vào khăn
Phòng khi họ Mã dữ dằn
Quyết liều sinh tử tấm thân cát đằng

Trời oan nghiệt xích thằng chặt đứt
Bởi vì ai nỡ dứt tơ hồng
Tuyệt đường thiếp phải theo chồng
Gìa nua vô lại đèo bồng thiên nga…“

Kim ốc nghĩa là nhà vàng.Theo điển tích khi Hán Võ Đế còn làm thái tử, rất thích  Trần A Kiều hay gọi tắt là Trần Kiều. Mẹ là Quán Đào công chúa Lưu Phiếu, hoàng nữ duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng, cô mẫu của Hán Võ Đế Lưu Triệt.
Công chúa Lưu Phiếu chỉ A Kiều hỏi thái tử Lưu Triệt: Có muốn A Kiều làm vợ không? A Kiều có đẹp không? Để đáp lại Hán Võ Đế nói: Nếu được A Kiều sẽ xây một tòa nhà bằng vàng cho ở.

“Buồn vì hoa rụng não nùng
Soi gương biếm họa tận cùng khổ đau
Vân mồng ai biết trước sau
Hồng trần phủ bụi vàng thau lu mờ“

Vân mồng nghĩa là tin tức,ngóng trông chờ đợi nhưng vẫn biệt vô âm tín mất tăm hơi.

“ Lân tinh đom đóm dật dờ
Nấm mồ vô chủ xác xơ bướm vàng
Bon chen quyền quý cao sang
Mỉa mai giấc mộng phũ phàng Nam Kha

Gốc hòe đàn kiến vào ra
Đêm vui ngắn ngủi xót xa kiếp người
Phấn son xiêm áo tả tơi
Phù dung bèo bọt về nơi bến nào?“

Nàng cung nữ nghĩ đến tương lai mà mờ mịt. Không biết sau này thân xác bị chôn vùi ở đâu? Như mả Đạm Tiên vậy? Được tôi mô tả trong tập Tài Mệnh Tương Đố:

“Xem phong cảnh bồn chồn xao động
Ngọn tiểu khê tiếng trống thu ba
Bâng khuâng sáo trúc ngân nga
Lập lòe đom đóm sập sà mả hoang

Cầu tre nhỏ bắc ngang dòng suối
Khí âm u lùa tới vây quanh
Vương Quan mới kể ngọn ngành
Đạm Tiên diễm lệ tài danh uổng đời

Biết bao kẻ một thời mến mộ
Chốn quần thoa rượu đổ thâu canh
Vương tôn công tử yến anh
Hồng nhan bạc mệnh mong manh ái tình

Có người khách ôm hình gấm lụa
Tìm tới nơi giàn dụa thương đau
Phấn son hương sắc phai màu
Bình tan trâm gãy nát nhàu cỏ cây

Khói hương lạnh bấy chầy năm tháng
Kiều nghe ra cay đắng xót xa
Thương nàng kỹ nữ tài hoa
Vân cười chị khéo nhạt nhòa lệ rơi

Dư nước mắt khóc người thiên hạ
Thắp nén hương từ tạ khói bay
Chắp tay khấn nguyện nào hay
Phũ phàng chi kiếp tỉnh say mặn nồng

Đời mòn mỏi má hồng son phấn
Vẫn trắng tay tủi hận đêm trường
Không chồng tiếp khách thập phương
Thác đày âm phủ thê lương não nùng.

Nào những kẻ loan chung phượng chạ
Chốn lầu xanh suồng sã bế bồng
Thâu canh chuốc chén rượu nồng
Còn ai chăng tá yếm hồng đào nương

Ta thương tiếc nén hương tri ngộ
Một đôi lời thổ lộ tâm can
Giữa đường gặp gỡ hỏi han
Oan hồn dưới đó gian nan thế nào?

Câu tứ tuyệt nghẹn ngào nhỏ lệ
Sẵn trâm cài nhỏ nhẹ nguồn cơn
Sầu tuôn lã chã tủi hờn
Da cây rỉ máu chập chờn heo may

Điều bạc mệnh đắng cay ân oán
Chẳng từ ai kiếp nạn hồng nhan
Vận người nằm đó mà than
Vương Quan e ngại khuyên can dỗ dành

Âm khí lạnh rung cành sương giá
Dấu dày in sỏi đá cuốn cờ
Thất kinh hoảng hốt sững sờ
Hồn ma u hiển hoang sơ ngỡ ngàng

Kiều day dứt tạ nàng thêm nữa
Bài cổ phong chan chứa hữu tình
Tuy không nhìn rõ dáng hình
Lờ mờ nhân ảnh lòng mình nôn nao…!

Thôi đành vậy dù sao chăng nữa
Tình chị em khách khứa làm gì
Đời người như cánh chim di
Ong ve bướm vãn thầm thì bên tai.”

“ Buồn trông cánh nhạn lao xao
Phong thư nhắn gửi sa vào vườn hoa
Kinh đô rơi lệ nhạt nhòa
Thương chàng Tô Vũ máu hòa sữa dê“

Tô Vũ là ai xin đọc bài thơ sau cuả tôi sẽ lý giải tường tận:

Mối Tình Tô Vũ

Đi sứ mà không thẹn quốc phong
Anh hùng danh sĩ sáng triều cương
Thuyền Vu gian trá hòng lung lạc
Tô Vũ nào xanh vỏ đỏ lòng

Ngục tối chẳng sờn bậc trí nhân
Trung quân ái quốc tấm lòng son
Hung nô run sợ người quân tử
Đày aỉ đàn dê đực đẻ con ?

Sớm tối bạn bầy với cỏ cây
Bức thư gửi nhạn gió mây bay
Một mai đỗ xuống vườn cung cấm
Hán Đế bàng hoàng đau xót thay

Trời đất hoang vu tuyết phủ dày
Nỗi buồn tê tái có ai hay
Bỗng đâu tiền sử xa xưa gọi
Bốn mắt nhìn nhau rụng rã rời…

Họ đã cô đơn thành vợ chồng
Rừng sâu rùng rợn nghiã tào khang
Đêm đông giông bão tình ân ái
Một bước chẳng dời bao mến thương

Rồi một ngày kia rụng cánh tàn
Muà hoa chẳng trọn tháng ngày xuân
Hán- Hồ hai nước thành giao hảo
Thánh chỉ ban ra giận dỗi hờn

Vua bắt chàng về Tô Vũ ơi!
Nuí rừng thăm thẳm trái tim rơi
Đàn dê nhớ chủ kêu thê thảm
Gió rít nguồn cơn giọt vắn dài

Bi tình bi sử xót thương đau
Lẽo đẽo tiễn đưa lệ ưá sầu
Kẻ ở người đi đường khấp khểnh
Người rừng thiếu phụ nhớ trăng thu

Quan aỉ cỏ cây cũng héo hon
Quân binh nuốt giọt suối ưu phiền
Thương người danh sĩ duyên tiền sử
Khoảng cách ngàn năm hận thế trần

Bốn mắt đăm đăm buồn thảm thiết
Tháng ngày hạnh phúc phút ly tao
Chàng về sứ sở nàng heo hắt
Thui thuỉ từng cơn gió tuyết gào…

Một gói cỏn con của nuí rừng
Đường xa dạm thẳm xót thương cùng
Chớ quên đói khát ôm nhau khóc
Đèn đỏ thành đô đêm vắng trăng...

Nàng lại trở về hang tối xưa
Ngoái đầu hút bóng bước chân xa
Ổ rơm lạnh lẽo con thơ dại
Trằn trọc hoang vu lệ ứa trào

Người ở kinh thành muôn tiếng reo
Hai hàng văn võ giữa vương triều
Hán vương ngự giá  nghênh thân tiếp
Tô Vũ bâng khuâng một chén sầu

Tôi viết bài thơ tỏ ngợi ca
Mối tình Tô Vũ với trăng sao
Ngàn thu vằng vặc còn thương nhớ
Thiếu phụ rừng xanh trong cõi mơ.

2008 Lu H à

“Buồn nghe ngọn gió sơn khê
Vương Tường khăn lụa não nề bắc phương
Tỳ bà gảy khúc hoài hương
Hồng nhan bạc mệnh đoạn trường biệt ly“

Vương Tường là ai cũng xin đọc bài thơ sau, mọi sự sẽ sáng tỏ:

Thương Khóc Nàng Chiêu Quân

Chiêu Quân! Ơi hỡi Chiêu Quân!
Nghìn thu biền biệt trần gian tủi hờn
Dặm trường non nước Kinh môn
Minh Phi quê quán vẫn còn sầu tang

Yến anh nấm cỏ ngỡ ngàng
Trăng lên gót ngọc đài trang dịu dàng
Mạch sầu ai oán dở dang
Tiếng Hồ khúc nhạc bẽ bàng người ơi!

Chiêu Quân nàng đã đi rồi
Hôm nay có kẻ đứng ngồi tơ vương
Hồn kêu nức nở đau thương
Giữa làn mây trắng cánh hồng hạc bay

Phôi pha bức họa còn đây
Càng nhìn càng ngắm mà say vẻ tình
Tỳ bà thánh thót cô mình
Sen vàng bảng lảng biên đình trúc xinh

Chúc hoa mộng ước xập xình
Nghê thường vũ điệu bóng hình của ai
Lu Hà lạc lối thiên thai
Nụ hôn dàn dụa canh dài lệ chan!

26.5.2014 Lu Hà


Nỗi Lòng Nàng Chiêu Quân

Hắc thủy mênh mông chở nỗi sầu
Ngọn đèn tê tái suốt canh thâu
Sông ơi có chảy về quê mẹ
Mang hạt châu sa  kẻ cống Hồ

Trọn kiếp hồng nhan tủimá đào
Căm tên hoạ sĩ nỡ sai ngoa
Mặt hoa da phấn bôi ra mực
Trích lệ khoé ruồi số sát phu....

Xé mảnh luạ đào cắn máu thơ
Đôi dòng trăng trối gửi ngàn thu
Nhạn kia đem cánh hoa tiên ấy
Trở lại thành đô dâng Hán Vua

Chiếc bách lênh đênh nặng oán hờn
Quan san Hồ-Hán gió mưa tuôn
Quặn lòng thiếu nữ trôi dòng lệ
Một chút hồn trinh trả thế trần

Văng vẳng đàn khuya dưới bóng trăng
Nhặt khoan vần vũ kéo năm cung
Chim kêu cá lội buồn ngơ ngẩn
Thương kẻ xa hương một nỗi lòng

Nhớ buổi tiễn đưa vua đích thân
Dắt tay bịn rịn giữa quân thần
Ví cho sơ ý gây ra cảnh
Tình đã tan rồi ôi Hán Nguyên

Một bước chân đi ván đóng thuyền
Cạn dòng lá thắm mối tơ duyên
Truyện xưa nhắc lại đầy ai oán
Dương quý Phi tàn hận Lộc sơn....

Kẻ ấy gian thông với giặc Hồ
Vẽ tranh bán chuá hại đời hoa
Vì ai mắc bẫy Mao diên Thọ
Nên nguyện sông này rửa nhuốc nhơ

Năm tháng trải qua bao nắng mưa
Thương người con gái thác năm xưa
Thuyền qua kẻ lại nhìn thương bến
Văng vẳng còn nghe một giọng sầu

Đã mấy ngàn thu đoạn thế trần
Xót người thục nữ thắm môi son
Trăng sao soi tỏ cùng sông nuí
Lữ khách trên thuyền nhớ cố nhân

2008 Lu Hà

“Phong tình cổ hận Kiều nhi
Ba chìm bảy nổi tương tri luống sầu
Chị em cam chịụ cơ cầu
Trải qua bao cuộc bể dâu não lòng“

Bốn câu kết đoạn video này càng rõ ràng minh bạch với cái tiên đề của tập thơ Hồng Nhan Bạc Mệnh, cuộc đời nàng cung nữ của Nguyễn Gia Thiều cũng ai oán bi thương tận cùng khổ đau như cuộc đời nàng Kiều của cụ Nguyễn Du. Bình giảng thơ, bình giảng video hết thơ nọ đến thơ kia dan díu nhau liên kết với nhau theo một trình tự lo rích tâm linh. Ta đang thưởng thức thơ và nghe ngâm thơ mà. Thơ nào thì cũng là thơ cả. Chứ không chăm chăm chỉ chữ nghĩa trong Hồng Nhan Bạc Mệnh. Muốn hiểu tường tận phải dẫn giải nhiều kiến thức văn chương. Khó nhất là điển tích.

2.11.2019 Lu Hà










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét