Thứ Hai, 16 tháng 11, 2020

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 171

 

 

Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 12

 

“Lão chống gậy ngân nga hoan lạc

Lá hôn chân xào xạc miền tây

Lắc lư vai nặng bầu đầy

Rượu thơm ngây ngất bóng cây chập chờn

 

Phong cảnh lạ từng cơn gió thổi

Chắp hai tay xin hỏi lão ông

Gần đây có bậc thày không?

Cao tay pháp thuật thần thông cứu đời?

 

Dương Từ tới tỏ lời kính cẩn

Lão thản nhiên chẳng bận đến ai

Ung dung ngày rộng tháng dài

Nơi miền sơn cước khứ lai chẳng màng

 

Hơn sáu mươi tuổi đang sung sức

Nhờ khí trời thể lực dẻo dai

Kể chi tán, kiệu, mão, đai

Tiều phu đốn củi hươu nai bạn cùng“

 

Dương Từ đã xuống tóc qui y theo Phật, nhưng trên bước đường chu du thiên hạ, đã gặp một ông Tiều Phu đốn củi trên núi rừng, thực ra ông là một danh sĩ ẩn cư sống thuận theo thiên nhiên, nên gần 70 tuổi mà xem ra lão rất cường tráng, lão giới thiệu cho Dương Từ cách thức đến thăm đạo sĩ Huyền Hồ.

 

“Đầu Tây Lâm cúc tùng mai trúc

Thày Huyền Hồ đáng bực trí tri

Hứa Do Sào Phủ kém chi

Giang hồ kiếm khách tu mi với đời“

 

Hứa Do và Sào Phủ là hai cao sĩ đời Đường Nghiêu. Vua Nghiêu nghe danh tiếng là bậc hiền tài thông thái muốn nhường ngôi cho. Hứa Do từ chối lui về Côn Sơn ở ẩn. Về sau Vua Nghiêu lai sai người đến mời một lần nữa. Hứa Do cao ngạo cho rằng lời thuyết khách danh lợi ấy làm bẩn tai mình, mới ra bờ sông Dĩnh Thủy rửa tai. Lúc đó Sào Phủ đang cho trâu uống nước, mới hỏi cớ sao túc hạ lại rửa tai? Hứa Do bèn kể lại nguyên do vì cớ sao mà hai lỗ tai bị bẩn. Sào Phủ bèn cho trâu lên quãng trên uống nước, vì cũng sợ bẩn miệng trâu.

Ông lão lại hỏi Dương Từ nguyên cớ gì lại đi tu? Dương Từ cũng chân thật kể cho biết lý do. Ông lão cũng có lời khuyên.

“Lão trượng hỏi sao ngươi cạo trọc?

Hình thày tu lóc cóc mõ khua

Sớm khuya hiu hắt cảnh chùa

Muối dưa đạm bạc bốn mùa nước non

 

Đội ơn Phật cho con nối giõi

Chịu tam hương tôi mới đi tu

Ba ngôi tam bảo Dương Từ

Thiện Trai được gọi chân như thuyền từ

 

Sao không học Đặng Du thuở trước

Chịu thiệt thòi giữ được bảng son

Xót xa Tử Hạ mất con

Mù lòa đôi mắt héo hon nỗi lòng“

 

Bá Đạo tự là Đặng Du, người nước Tấn giứ chức Thái Thú ở Hà Đông lại gặp năm thiên hạ đại loạn mới mang vợ con và một đứa cháu ruột con người em trai đi chạy trốn giữa đường gặp bọn cướp đuổi sát bờ sông. Ông liệu tính thuyền nhỏ không bảo toàn cả con lẫn cháu, mới bảo vợ rẳng:

-“Em ta chỉ còn một đứa con trai duy nhất, không thể để cho nó tuyệt giống, chúng ta còn trẻ vẫn có thể sinh ra đứa khác.Vậy ta đành bỏ con lại, mang cháu nó đi“

Về sau, ông được đề cử làm thái thú đất Ngô Quận, nổi tiếng thanh liêm, dân chúng rất kính phục, nhưng vợ ông lại không may mắn sinh đẻ được nữa.Tử Hạ người nước Vệ họ Bốc tên Thương thời xuân thu, học trò giỏi về văn chương của Khổng Tử, chỉ có một đứa con trai duy nhất. Con ông chẳng may đoản mệnh còn rất trẻ, ông khóc mà mụ lòa cả đôi mắt.

 

“Đã qui y thong dong đây đó

Việc của ta nào có phiền ai?

Đạo vàng theo gót Như Lai

Từ bi hỉ xả đào mai cúc tùng

 

Vậy xin hỏi trập trùng sơn dã

Có chùa nào thư thả nghỉ chân?

Khẩn nài tha thiết trượng nhân

Chỉ đường đi tới bội phần tri ân

 

Chùa lai vãng xa gần chẳng thiếu

Này Hàn Sơn, Lâm Thủy, Thiên Thai

Khói nhang Linh Diệu tuôn hoài

Âm dương đôi ngả giao đài mù sương

 

Có hai hang Diêm vương Bích lạc

Khách thập phương thù tạc văn chương

Đông nam cỏ rạp bên đường

Ngựa xe tấp nập khói hương nhạt nhòa“

 

Dương Từ mới đáp lại với ý rẳng mình đã xuống tóc đi tu qui y cửa Phật, cây mỗi nhà mỗi cảnh mà không thể học theo Đặng Du hay Tử Hạ được. Mới hỏi đường đi thăm viếng cảnh chùa. Chùa thì nhiều nhưng nổi tiếng nhất có lẽ là Linh Diệu có đủ hai hang âm dương thần bí, khách thập phương lai vãng. Còn Hàn Sơn tên ngôi chùa ở huyện Ngô, tỉnh Giang Tô. Tương truyền có hai nhà sư đời Đường tên là Hàn Sơn và Thập Đắc đã tu trì ở đó, nên đời sau gọi là chùa Hàn Sơn. Lâm Thủy tên con sông bắt nguồn từ tỉnh Thiểm Tây chảy qua Lam Điền rồi đổ vào sông Bá.

 

 

Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 13

 

“Hướng tay chỉ một tòa sừng sững

Chim én bay dựng đứng sơn kỳ

Đông vui thủy tú nhung y

Chi lan kẽ đá ầm ỳ suối reo

 

Cửa hang ngỏ hắt heo gió thổi

Trẻ dắt già hồ hởi bước vào

Trai thanh gái lịch xôn xao

Thiều quang chín chục dạt dào xuân xanh“

 

Thiều quang là ánh sáng tươi đẹp chỉ mùa xuân. Chính chục thiều quang tương ứng với ba tháng mùa xuân. Dương Từ mải vui cảnh mùa xuân lộng lẫy tươi roi rói chim bay bướm lượn hoa đua nở mà lỡ độ đường không tìm được quán trọ, may thay lại gặp một ngôi miếu cổ mới chui vào đó tá túc tạm một đêm và sảy ra một chuyện kỳ lạ. Tôi đã miêu tả tường tận bằng thơ song thất lục bát về một giấc mơ.

 

“Ngôi miếu cổ thôi đành nghỉ tạm

Tối như bưng chẳng dám lục tìm

Xung quanh vắng vẻ im lìm

Nặng đôi mi mắt bóng chìm vực sâu

 

Từ mơ thấy lính hầu tấp nập

Phán quan ngồi dáng dấp nho gia

Trông lên tuổi vẫn chưa già

Cân đai mũ mão trau tria thiếp vàng

 

Quân hộ vệ hai hàng võ phục

Giải Dương Từ hối thúc đi nhanh

Thẻ bài lệnh tiễn đồng thanh

Trước sân cẩm thạch ngọn ngành hỏi tra

 

Thằng sãi kia bôn ba đây đó

Vào miếu ta rúm ró nằm co

Vợ con sao chẳng chịu lo

Cửa nhà bỏ bễ so đo mãi hoài

 

Dám xưng hiệu Thiện Trai pháp đạo

Hoa hạ hay ngơ ngáo man di

Rõ ràng tỏ dạng nam nhi

Tóc râu cha mẹ cớ gì cạo đi?

 

Công dưỡng dục bù trì như thế

Lại chóng quên trốn thuế vô chùa

Nắng mưa dầu dãi bốn mùa

Thê nhi eo óc cá cua rau đồng

 

Một trăm roi vào mông buốt nhói

Đao phủ đâu dẫn tới pháp đình

Dương từ hồn lạc phách kinh

Giật mình tỉnh dậy ra mình chiêm bao

 

Trời hửng sáng chiếu vào khe cửa

Cạnh bức tường lưng tựa não nề

Ngó lên liễn chỉ tên đề

Thì ra Hàn Tử Xương Lê nhạt nhòa:

 

“Một sách đạo nguyên lòa mắt thánh

Ba tờ Phật biểu chát tai vua”

Thiên thu cơn gió thoảng qua

Vàng thau phủ bụi phân bua lẽ đời

 

Ngàn năm để tiếng cười mai mỉa

Phật Lão Nho tròn trịa dễ sao?

Đúng sai miệng lưỡi lao xao

Còn Ki-Tô giáo nghẹn ngào tổ tông.“

 

*Nguyên tác thơ lục bát: “Dương Từ Hà Mậu”

 

Hàn Dũ tự Thoái Chi sinh tại đất Hà Dương, Hà Nam bên Tàu nay thuộc Mạnh Châu, tỉnh Hà Nam; tổ phụ người đất Xương Lê nay thuộc Hà Bắc, nên ông thường tự xưng là Hàn Xương Lê ( làm quan về đời vua Đường Hiến Tông tới Binh bộ thị lang, Lại bộ thị lang.

 

Hàn Dũ sinh ra trong một gia đình có học. Khi còn bé thì mẹ đã mất. Năm ông lên 2 tuổi thì cha cũng mất. Ông sống cùng anh trai là Hàn Hội (tức Hàn Lão Thành). Khi anh ông đi làm quan thì ông cũng được đi theo tới kinh đô và Thiều Châu. Sau đó Hàn Hội mắc bệnh mà chết nên ông cùng chị dâu họ Trịnh quay trở về quê nhà tại Hà Dương, sau chuyển tới Tuyên Thành. Ông cùng cháu của Hàn Hội đều do một tay Trịnh thị nuôi dưỡng lên người, tình nghĩa giữa ông và cháu của Hàn Hội như chân với tay.

 

Năm lên 6 ông bắt đầu đọc sách, đến năm 12 tuổi đã có khả năng sáng tác văn chương. Ông đã có tới Trường An dự thi nhưng ba lần đều không đỗ. Cuối cùng, vào kỳ thi năm Trinh Nguyên thứ 8 ông đỗ tiến sĩ và ứng thi vào Lại bộ nhưng cũng không trúng ba lần. Đến năm Trinh Nguyên thứ 11 mới được tiến cử.

 

Năm Nguyên Hòa thứ 14 (819), nhân việc Đường Hiến Tông cho rước xương Phật vào cung để thờ, Hàn dâng biểu can gián. Vua Hiến Tông cả giận hạ lệnh đem Hàn Dũ ra xử tử. May nhờ có các quan như Bùi Độ và Thôi Quần hết sức kêu xin, Hàn mới thoát khỏi tội chết, bị giáng chức xuống làm thứ sử ở Triều Châu, một nơi xa xôi hẻo lánh, khổ sở.

 

Sau khi Đường Mục Tông lên ngôi, ông được triệu hồi về kinh, lần lượt đảm nhận các chức vụ như Quốc tử giám Tế tửu, Thị lang Binh bộ, Thị lang Lại bộ, Kinh triệu doãn kiêm Ngự sử Đại phu. Vì thế người ta gọi ông là Hàn Lại bộ. Năm 824, ông bị bệnh mà chết. Đến năm Nguyên Phong thời nhà Tống, ông được truy phong là Xương Lê bá. Hiện tại, ở trấn Tây Quắc, huyện cấp thị Mạnh Châu còn mộ của ông tại Hàn trang. Ông là người chủ trương vinh danh Nho giáo châm biếm Phật giáo. Loạng choạng thế nào nhà sư Dương Từ lại vào miếu thờ ông ngủ trọ miễn phí, nên bị ông quở trách phạt đánh đòn trong giấc mộng.

 

6.2.2020 Lu Hà

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét