Thứ Hai, 20 tháng 7, 2020

Lu Hà Và Khuyết Danh Chùm Thơ Số 11


Oan Khiên Bồ Tát
Cảm xúc thơ khuyết danh bài 11

Trên sân đình châu rơi lã chã
Tiểu Kính Tâm lòng dạ hiền lương
Tai bay vạ gió bất thường
Cây rung dòng lệ khói hương mịt mù


Miệng tụng kinh âm u gió chướng
Aó cà sa đâu vướng bụi trần
Tay lần tràng hạt phân vân
Giai không tứ đại xót thân bồ đề

Chẳng lẽ nào say mê lầm lạc
Nẻo trần ai không sắc chưa thông
Tiểu tăng sàm sỡ má hồng
Bướm ong dan díu chất chồng nghiệp mang

Kẻ xuất gia đạo tràng giữ giới
Quen mùi thiền sớm tối dâng hương
Trọn lòng sống với Phật đường
Trai phòng thủ tự chẳng vương vấn đời

Làng chẳng nghe những lời chân thực
Thị Mầu càng thổn thức khóc than
Kính Tâm thày tiểu dối gian
Rắp ranh bẻ liễu lường gàn tiểu tinh

Các phụ lão bất bình la lối
Phải lôi ra hạch tội Kính Tâm
Thảm thê thân xác tím bầm
Đánh cho tiệt nọc gian dâm lăng loàn

Chẳng chịu khai mưu toan trí trá
Cứ chai lỳ sắt đá trơ trơ
Xem ra cũng thật đáng ngờ
Sùng bà nhăn nhó tiểu thơ chau mày

Trận mưa đòn ghê thay nhân thế
Khắp mười phương nhục thể tang thương
Lệ làng chánh pháp nhiễu nhương
Trời sầu đất thảm thê lương hãi hùng

Nỗi oan khiên tận cùng xã hội
Cứ khăng khăng buộc tội người ta
Trắng đen trong cõi sa bà
Thương thiên hại lý cảnh nhà lầm than

Sư trụ trì chứa chan giọt lệ
Cầu dân làng vị nể tha cho
Tiểu tăng tuổi trẻ ngây thơ
Tấm lòng Bồ tát đợi chờ cưu mang

Sư bảo lãnh sẵn sàng nộp phạt
Tiền nhang đèn cúng Phật muôn phương
Dẹp cơn thịnh nộ đám đông
Đưa nàng về chốn thọ đường dưỡng thương

Tiểu Kính Tâm chẳng vương vấn bụi
Cõi hồng trần buồn tủi làm chi
Trọn lòng tinh tấn tu trì
Kinh Ba la mật dương chi thấm nhuần

Tưới cam lồ tinh thần mẫn tiệp
Tịnh độ thông tu tiếp thảnh thơi
Dần dà Thày mới ngỏ lời
Dù sao cũng để tiếng cười chê bai.

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“
9.7.2020 Lu Hà




Oan Khiên Bồ Tát
Cảm xúc thơ khuyết danh bài 12

Cửa tam quan mái ngoài đã dựng
Hãy tạm thời chịu đựng ít lâu
Mỉa mai cam chịu cơ cầu
Muối dưa đạm bạc dãi dầu tuyết sương

Phật tại tâm dẫn đường hạnh ngộ
Dù ở đâu con chớ nghi ngờ
Cũng nên gắng gượng làm ngơ
Giải oan cắt kết thoát bờ trầm luân

Đợi đến ngày lục căn thanh tịnh
Con thành tâm Phật tính hiển danh
Đệ tam Sư tổ tạo thành
Đoạn trừ phiền não trời xanh tỏ bày

Thày không tin chuyện này có thật
Chắc có điều uẩn khuất gì đây
Rồi đây mọi sự phơi bầy
Trắng đen rõ cả đọa đầy tiêu tan

Nàng quỳ xuống ứa tràn khóe hạnh
Nông nỗi này dám trách chi ai
Phúc lành ứng quả thiện tai
Tiền duyên ân trạch khứ lai kim thằng

Vòng kim cô dây vàng thắt chặt
Kiếm thất tinh Bồ tát ba tiêu
Thoát sao miệng lưỡi cú diều
Nhẫn tâm vu khống đặt điều điêu ngoa

Nào ai hay trên tòa sen ngự
Độ Kính Tâm Vân tự nẻo xa
Nương mình bên khóm cúc hoa
Một hai luống cải dăm ba cụm hành

Lều một gian buông mành trúc bạch
Dưới ngọn đèn kinh sách chân tu
Nhạn bay gió thổi vi vu
Song thân chống gậy vân du cuối trời

Nhà ta đó về nơi đoàn tụ
Thân liễu bồ trú ngụ ẩn danh
Cù lao nặng nghĩa sinh thành
Trần gian trả nghiệp con đành dời xa

Nạn Cự môn ngỡ đà qua khỏi
Thái tuế kia soi mói tới đây
Tiền sinh nghiệp chướng còn đầy
Hai phen ràng buộc đọa đày não thân

Mắt phàm chẳng ngay gian khôn tỏ
Oan tày trời thống khổ xiết bao
Ruột đau chín khúc dạ bào
Dao hàn cứa thịt má đào phôi pha

Ba la mật, Vệ đà thông kệ
Kinh pháp dày suôn sẻ muôn lời
Tai ương nghiệp lực rã rời
Tro than tam muội lụy đời tiêu tan

Đứa dâm ô gian ngoan xảo trá
Oán thù chi đội đá đeo gông
Tập điều khó nhẫn huân công
Quán âm tâm chiếu vàng rồng chí tôn.

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“
10.7.2020 Lu Hà




Oan Khiên Bồ Tát
Cảm xúc thơ khuyết danh bài 13

Bậc chân tu tồn sinh chí tại
Bụi trần dơ chẳng ngại lau chùi
Tùy duyên nước rửa sạch mùi
Gương trong tâm sáng niềm vui thái hòa

Bấm ngón tay khai hoa mãn nguyệt
Thị Mầu sinh rõ thiệt con trai
Phú ông lấn bấn chi hoài
Mang lên Vân Tự mé ngoài tam quan

Cứ bỏ đó trở trăn gì nữa
Của nhà chùa lần lữa mãi sao?
Tiếc thương chi giọt máu đào
Thị còn lưỡng lự thì thào mẹ cha

Ngỡ ép chơi hoá ra lại thật
Biêt làm sao lật đật lên chùa
Cửa thiền la lối chanh chua
Thị càng đanh đá mõ khua lạnh lùng

Vứt núm ruột mít mùng tăm tối
Nhìn bé thơ lần cuối ra về
Vòng qua mấy ngọn tiểu kê
Xung quanh vắng lặng hoa lê thẹn thùng

Tiếng trẻ khóc não nùng khôn xiết
Tiểu Kính Tâm chẳng biết tính sao?
Băn khoăn do dự lẽ nào
Làm cha phận gái má đào khác chi

Đức hiếu sinh tu trì cửa Phật
Chốn thiền am ẩn dật bấy lâu
Oan khiên phải chịu cơ cầu
Cù lao chín chữ dãi dầu nắng mưa

Tình phiếu mẫu sớm trưa chiều tối
Đã nhủ lòng tìm lối cưu mang
Đầu ghềnh cuối bãi lang thang
Lạy van xin sữa đầu làng cuối thôn

Sáng hôm sau ôn tồn Sư phụ
Cháu họ Sùng sao chịu dưỡng nuôi
Tránh sao bóng gió xa xôi
Mỉa mai điều tiếng khắp nơi chê cười?

Bạch Sư phụ cảnh đời tệ bạc
Dù có xây chín bậc phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho
Mạng người là quý còn lo ngại gì

Con không nuôi suy bì thiên hạ
Ràng buộc mình đội đá với đời
Hài nhi đâu phải trò chơi
Chẳng may chết uổng đất trời nào tha

Sư phụ dạy vị tha cứu thế
Tham sân si  chớ để nhuốm vào
Xưa nay nhân nghĩa cần lao
Đạo Bồ tát hạnh dạt dào bao la

Sư phụ khen thật là hiếm có
Tiểu Kính Tâm trả nợ trần ai
Trẻ thơ Thày gọi Thiện Tài
Kiếp xưa trói buộc mãi hoài truân chiên

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“
11.7.2020 Lu Hà




Oan Khiên Bồ Tát
Cảm xúc thơ khuyết danh bài 14

Mẹ tò vò oan khiên con nhện
Quản chi bầy triền triện mỉa mai
Xin từng giọt sữa trần ai
Máu hòa nước lã cơm nhai nuôi người

Chặn họng sao lưỡi môi tỉa tót
Tiểu kia tu có trót lọt đâu
Phải chăng có đưá hoạt đầu
Mình là hai với Thị Mầu thứ ba

Công nuôi hộ thật là trái khoáy
Đương muộn phiền hết thảy đỡ buồn
Khi khua mõ, lúc chuông dồn
Tụng kinh lẫn tiếng ru con tối ngày

Thời gian trôi lá bay xào xạc
Ba mùa thu con khác cha nuôi
Hình dung dáng vóc lạ đời
Đen như củ ấu giống người đằng la

Nhờ cha dạy kinh ba la mật
Đọc lầu lầu trẻ thật dễ thương
Giúp cha thắp nén tâm hương
Từng pho thủ tự kim cương sẵn sàng

Lên sáu tuổi lại càng trí huệ
Bát nhã kinh luận để từng chương
Sáng soi ngũ uẩn giai không
Thiện Tài chiếu kiến tinh thông diệu huyền

Cha nuôi dạy chân truyền uy dũng
Kéo hết tơ nhện cũng về già
Mừng con giáo lý trau tria
Lớn khôn giác ngộ khắc bia tạc lòng

Theo đức hạnh gương trong sáng láng
Giống cha nuôi hành trạng ung dung
Thông minh đĩnh đạc vô cùng
Ba ngôi tam bảo thủy chung trọn đời

Một khoảng khắc chơi vơi sắc lá
Hoa ủ màu sỏi đá tả tơi
Bỗng nhiên cha gọi Tài ơi!
Chẳng còn lâu nữa phải dời xa con

Viết lá thư nguồn cơn kể rõ
Gửi song thân còn ở Lũng tài
Dặn dò ngăn cách trần ai
Cha về rừng tía Phật đài quang vinh

Chờ buông xả tự mình quán chiếu
Phật độ tăng vi diệu tâm linh
Thiện Tài như bóng với hình
Dứt lời cha mới lặng thinh tọa thiền

Hơi thở ngắn triền miên giấc ngủ
Trẻ thơ ngây Sư phụ báo tin
Mọi người ngơ ngác giờ thìn
Âm dương cách trở đứng nhìn lệ rơi!

Mấy sư đệ rụng rời kể lể
Tiểu Kính Tâm thân thể nữ nhi
Sư ông nghe nói hồ nghi
Vãi đâu khám nghiệm có gì lại thưa.

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“
12.7.2020 Lu Hà




Oan Khiên Bồ Tát
Cảm xúc thơ khuyết danh bài 15

Án Kính Tâm vẫn chưa sáng tỏ
Liệm tử thi mới rõ đàn bà
Giác linh về cõi Phật đà
Thị Mầu là đứa điêu ngoa lạc loài

Trình Sư phụ ra ngoài thôn xóm
Đồn khắp làng từng nhóm đổ ra
Thiện nam tín nữ xót xa
Mõ truyền loan báo cả nhà phú ông

Khoán tài vật cửa không đã nộp
Theo lệ làng bắt gộp làm hai
Ma chay phúng điếu trong ngoài
Họ Sùng đổ vạ cho ai được nào?

Tiểu Thiện Tài gọi vào Sư hỏi
Cha lâm chung trăng trối điều gì?
Bạch Thày trong đó đã ghi
Bốn thư di chúc tức thì trao tay

Gửi cha mẹ Lũng tài quận nọ
Lá thứ hai Sư phụ chư tăng
Thị Mầu Thiện Sĩ rõ ràng
Trắng đen thấy cả mọi đàng phân minh

Ả dâm dục trước đình chịu tội
Khai thằng Nô gian dối bấy lâu
Aó sô khăn trắng quấn đầu
Sùng ông mốc mặt Thị Mầu mẫu thân

Nỗi ô nhục tâm thần bấn loạn
Cùng thằng Nô bầu bạn suối vàng
Gà đồng mèo mả bẽ bàng
Cô hồn ngạ quỷ lang thang bụi bờ

Thương cảm thay dật dờ đom đóm
Buổi xế chiều lọm khọm Mãng ông
Mãng bà chống gậy lưng còng
Nhận thư từ chốn cửa không gửi về

Thư thấm lệ dãi dầu sương gió
Nỗi oan khiên năm đó giãi bày
Cái râu mọc ngược cho hay
Tình nghi mưu sát đọa đày đến nay

Hai vụ án đắng cay oan nghiệt
Án giết chồng thảm thiết dâm ô
Giả trai đâu phải ni cô
Dân làng phạt vạ chày vồ tả tơi

Thiện Sĩ cũng tuôn rơi ngấn lệ
Bao năm trời cô lẻ một mình
Vào ra chiếc bóng in hình
Ngọn đèn bức vách điêu linh não nùng

Cả ba lại cùng chung cảnh ngộ
Người mất con kẻ vợ xa lìa
Gánh sầu san sẻ phân chia
Mong sao tới kịp mộ bia khóc thầm

Đường gập ghềnh ầm ầm thác đổ
Qua tây hồ cổ độ trăng soi
Lao xao cá nước mặn mòi
Chuông chùa thúc giục kịp thời tới nơi.

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“
12.7.2020 Lu Hà

Oan Khiên Bồ Tát
Cảm xúc thơ khuyết danh bài 16

Chùa Pháp Vân mọi người đông đủ
Lập đàn chay Sư phụ điếu văn
Dân làng tỉnh ngộ ăn năn
Cây rung hạt lệ trở trăn nỗi niềm

Con ngọc thỏ bên thềm ảm đạm
Mò kim vàng thê thảm trăng rằm
Ngư trầm nhạc lạc tin thăm
Hồ sâu tôm cá sủi tăm bóng chìm

Đã bấy lâu im lìm dáng nguyệt
Mảnh lưỡi liềm da diết nhớ thương
Giận mình lỗi đạo cương thường
Gánh tình đổ vỡ giữa đường trắng tay

Di thể lạnh đắng cay còn thấy
Ở nơi này nhờ cậy thiền môn
Đầm đìa khóe hạnh trào tuôn
Sen vàng bảng lảng nửa hồn gió mây

Đã một thời vui vầy hoa bướm
Yếm xuân đào thấm đượm sương mai
Nào ngờ nghiệp qủa khứ lai
Tai bay vạ gió bi ai lạnh lùng

Cơn sóng vỗ chập chùng biển cả
Khúc tiêu sầu vàng đá phôi pha
Sớm khuya tựa cửa mẹ cha
Vào ra ngóng đợi cảnh nhà quạnh hiu

Chán nhân gian buồn thiu gió thổi
Dấu niết bàn lặn lội tới đây
Thiền am bát nước vơi đầy
A di đà Phật bấy chầy chân kinh

Đồ cúng tế anh minh tam bảo
Huyền diệu thay thơm thảo hương lân
Nhiệm mầu kết đóa tường vân
Thích Ca linh hiển toàn thân đạo vàng

Lời sang sảng ngân vang kinh kệ
Tiểu Kính Tâm giáng thế quang lâm
Vinh thăng là Phật Quán Âm
Hồng hài nhi trọn tình thâm Thiện Tài

Gọi đồng tử bên ngài hầu cận
Thiện Sĩ thì tủi hận đứng bên
Hóa thành chim vẹt cho nên
Muôn đời học nói đài sen tọa thiền

Kìa hai khóm thung huyên phúc hậu
Tỏ tấm lòng phụ mẫu cù lao
Phất trần thong thả thanh tao
Một nhà siêu thoát cảnh nào vui hơn

Chốn bồng lai chập chờn sóng nhẹ
Sợi lông hồng cũng dễ chìm ngay
Ba nghìn thế giới nào hay
Không sinh không diệt hương say niết bàn

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“
13.7.2020 Lu Hà




Oan Khiên Bồ Tát
Cảm xúc thơ khuyết danh bài 17

Thư để lại chứa chan nhân thế
Gửi mẹ cha kể lế nguồn cơn
Ơn sơn hải, phận tủi hờn
Phù du bèo dạt dập dờn hồng nhan

Thân liễu bồ gian nan quan ải
Tấm lòng son gửi lại đôi hàng
Xích thằng đổi lấy kim thằng
Cắt râu nên nỗi thiếp chàng biệt ly

Phải chạy trốn bát y tầm đạo
Xuống tóc rồi tam bảo thuận duyên
Ngưu Lang, Chức Nữ đôi bên
Ngân hà xa cách thung huyên xa vời

Với hương phấn thẹn lời non nước
Gánh hiếu đành thổn thức khóc than
Dặm trường cách trở quan san
Mẹ cha già yếu dao hàn cắt da

Miền bát nhã la đà mây khói
Nương thuyền từ vượt khỏi sóng mê
Quang minh đuốc tuệ bốn bề
Thành sầu bến giác ngộ về chân kinh

Nơi Vân tự chày kình mõ gõ
Bỗng từ đâu bể khổ vây quanh
Thị Mầu mưa máu gió tanh
Giở trò ái dục hóa thành dở dang

Thuở làm vợ bẽ bàng thất tiết
Lúc làm trai mất nết oan tình
Học theo trời đất hiếu sinh
Nuôi người cam chịu nhục hình mỉa mai

Cũng bởi tại khứ lai đòi đoạn
Nên đời con lận đận khổ đau
Tưởng rằng dưa muối tương rau
Nâu sồng y bát kinh cầu thảnh thơi

Nào ngờ đâu tả tơi thân xác
Bị đánh đòn phờ phạc tháng ngày
Bồ hòn ngậm đắng nuốt cay
Xanh xao cành liễu lắt lay gió lùa

Trải mấy thâu bốn mùa hiu quạnh
Nuôi con thơ khổ hạnh xiết bao
Bàn dân thiên hạ xôn xao
Ruột đau chín khúc dạ bào xót xa

Tránh sao khỏi người ta đàm tiếu
Chú tiểu dâm phải chịu đọa đày
Cho nên con viết thư này
Nghiêm từ trăm lạy trả vay nợ đời!

Bệnh càng nặng chơi vơi đất khách
Đành ra đi dám trách chi ai
Dù cho lạc nẻo tuyền đài
Hay về Phật quốc thiên thai non bồng.

Xin hết truyện
*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“
13.7.2020 Lu Hà



















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét